Monthly Archives: August 2014

Hoài Niệm Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường

 

 

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Phạm Tín An Ninh-Vành Khăn Tang Cho Một Anh Hùng

Vành Khăn Tang Cho Một Anh Hùng

Nghĩa Trang Melrose Abby Memorial Park nằm ở thành phố Anaheim, ngay phía dưới Xa Lộ 5. Đến nhà nguyện trước 9 giờ sáng, tôi đã thấy đông đảo đồng hương và chiến hữu trong màu áo của đủ quân binh chủng: Bộ Binh, Thiết Giáp, Nhảy Dù, Nha Kỷ Thuật, Hải Quân, Không Quân và đặc biệt là SVSQ Thủ Đức. Một số đang chuẩn bị cho Lễ Phủ Kỳ. Toán phủ kỳ được chỉ huy bởi một cựu Lôi Hổ trẻ, oai phong với cây kiếm bạc bên hông, cùng với hai cựu TQLC bồng súng chào và 8 chiến hữu thay mặt các Quân Binh Chủng trịnh trọng nâng lá Quốc Kỳ VNCH để phủ lên quan tài của một vị niên trưởng mà danh tiếng của Ông đã được mọi người biết đến: Mãnh Sư Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường.

Đại Tá Tường, vẫn còn đủ nét cương nghị trên khuôn mặt, trong quân phục Nhảy Dù, chiếc nón đỏ trên ngực, nằm bất động trong chiếc quan tài, như một “thiên thần” chỉ đang say ngủ.

Từng người lần lượt đến cung kính chào Ông lần cuối. Vài người ôm quan tài khóc sướt mướt. Các nhà sư, trong đó có một vị sư người Mỹ, niệm kinh hành lễ. Niên Trưởng Vũ Trọng Mục, người bạn có nặng tấm lòng, đứng ra tổ chức tang lễ cho người đồng môn cùng Khóa Vì Dân Thủ Đức (khóa 5), đã thưa với tất cả mọi người là Ông rất hãnh diện và sung sướng để được làm việc này cho một người Bạn đức độ, anh hùng. Ông cám ơn những bạn bè chiến hữu ở Bắc Cali đã dành cho Ông cái vinh dự lớn lao và cảm động này.

Một số đông bà con, chiến hữu đại diện cho Hội Đồng Hương và Tiểu Khu Bình Định, một số đã từng làm việc bên cạnh Đại Tá Tường, đứng thành hai hàng dài trước quan tài, sụt sùi nói lời ngưỡng mộ, biết ơn và từ biệt Ông, con Mãnh Sư bao phen đã làm kẻ thù khiếp sợ, cứu nguy và an cư cho dân, quân Bình Định trong suốt một thời khói lửa, điêu linh..

Không khí thật nghiêm trang, cảm động. Điều đặc biệt đáng buồn là không tìm thấy những vành tang trắng. Vợ con Ông không có mặt. Chẳng lẽ họ đã thực sự cạn tình, cạn nghĩa, quên mất thế nào là Nghĩa Tử Nghĩa Tận, hay là vì một lý do nào khác. Người đàn ông quỳ lạy, dâng hương và đội sớ trước bàn thờ hôm nay, xin được nhận Ông như nghĩa phụ là con rể của cựu Đại Tá Trần Đình Vỵ, vị tiểu khu trưởng, người bạn chiến đấu một thời với Ông ở Bình Định. Nơi Ông đã lập nhiều chiến tích vẻ vang, mà dư âm sẽ còn vang dội mãi trong lòng người và sử sách.

Trong nhà nguyện hôm nay, ngoài những cựu chiến binh, bạn hữu, còn có rất nhiều người, mà hầu hết chưa từng quen biết Đại Tá Tường. Họ đến đây với lòng ngưỡng mộ và kính yêu Ông. Họ đến để nhìn mặt Ông lần đầu cũng là lần cuối, khóc chào tiễn biệt một vị anh hùng. Ông ra đi nhưng không bao giờ chết. Ông sẽ sống mãi trong lòng mọi người. Và hôm nay, dù vợ con Ông không đến. Trước quan tài thiếu mấy vành tang trắng. Nhưng có biết bao chiến hữu, đồng hương có mặt, cũng như đang ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu này, đã dành cho Ông một vành tang rất trang trọng trong lòng.

Ai dám nói trong đoàn quân chiến bại không có những anh hùng? QLVNCH có rất nhiều vị anh hùng, và Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường rất xứng đáng để được gọi là một anh hùng. Ông ra đi nhưng sẽ không bao giờ chết và không bao giờ cô đơn, dù trên chính quê nhà hay ở chốn tha hương.

Phạm Tín An Ninh
(cựu lính SĐ23BB)

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Diệu Tần Nguyễn Tinh Vệ (Khóa 5)-Khóc Đại Bàng

Khóc Đại Bàng Nguyễn Mạnh Tường

Mãnh Sư Về Trời
(Như một điếu văn nhỏ bé…)

Nguyễn Mạnh Tường! Nguyễn Mạnh Tường!
Mãnh sư thiên tài và bi thương
Chỉ mỉm cười khi bị khước từ tăng viện
Anh quyết định phải dùng quân bản địa
Bên ta mất ba quận bắc Quy Nhơn
Anh quyết chiến, chí không sờn
Chúng đe chiếm luôn phi trường Phù Cát
Nguyễn Hồng Tuyền lòng như lửa đốt
Tỉnh trưởng không rành việc điều binh
Tiểu khu thêm những khuôn mặt bàn giấy thư sinh
Sư Đoàn 3 Sao Vàng hùng hổ
Ngập tràn Hoài Ân, Hoài Nhơn, An Lão
Dân chạy về Tuy Phước, An Nhơn
Quê hương Nguyễn Huệ, Hàn Mặc Tử chỉ mành treo chuông
Nguyễn Mạnh Tường chỉ huy thần sầu quỷ khốc
Bay trực thăng với đàn em Cẩm Mậu
Đánh gọng kìm trên Núi Bà, Đề Gi
Công anh, văn tài Trần Thúc Vũ đã từng ghi
Bị bao vây, địch lớp chết, lớp chuồn ra biển
Tăm tiếng Sao Vàng sớm chiều tan biến
Tiếp đó máy bay Phù Cát chở bom lên cao
Cả trung đoàn địch nằm hết thở như sậy lau
Bình Định vẫn còn, Quy Nhơn bình ổn
Nhưng Nguyễn Mạnh Tường được gì? Ông tiểu khu phó?
Vẫn mỉm cười, chịu đựng, xua tay
Không Bảo Quốc, không thêm trắng hoa mai
Dù "tướng nhỏ" ngợi khen, tặng mũ
Do "tướng đàn anh", anh bị quen vùi dập
Không màng chức vụ, chẳng ham lon
Anh chăm việc quân và chỉ Vì Dân
Tên khoá 5 sinh viên Thủ Đức
Có Lê Văn Hưng, theo thành mà chết
Niềm oan trái như Tướng Hiếu năm xưa
Giúp trừ tham nhũng mà chết như đùa
Tá Tường ra đi buồn hơn Tá Liễu
Bởi anh còn mối thảm thân tình
Vợ, hai con chưa thấu nghĩa tận tử sinh
Đâu có vì giận hờn ra thăm chưa gặp?
Anh đi tìm chân lý nơi Chúa, Phật
Ngộ ra đời cõi tạm, vô thường
Bỏ lại, bỏ lại hết lon lá, huy chương
Để còn nhớ bạn bè khi nhắm mắt
Có đồng đội, có Thọ Đan, Cẩm Mậu, Vũ Mục
Anh Tường ơi! Anh rũ áo chẳng cô đơn
Chúng tôi, khăn tang, tiếng khóc ẩn trong tim
Tên anh lừng lững trong quân sử
Tên anh vẫn đời đời sáng chói
Vĩnh biệt Tường, Bình Định Mãnh sư
…………………………….
Thôi, ngủ đi Anh, ngủ đi Anh!

Diệu Tần Nguyễn Tinh Vệ (Khóa 5)

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Các chiến hữu bàn lễ phủ cờ

Lễ Phủ Cờ cho Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường

Friday, January 28, 2011 11:42 AM

Hide Details

Cám ơn CH Hoà đã cho biết. Cầu xin cho Đ/tá NMTường được yên nghỉ và ấm lòng với nghi thức mà các dồng môn, đồng đội cùng chiến hữu dành cho ông.

DHDinh

From: NKT [mailto:nhakythuat]
Sent: Friday, January 28, 2011 2:28 PM
To: Doan, Dinh (USADC); nhakythuat
Cc: mai vu; Minh Le
Subject: Re: FW: Xin phụ trách Nghi Lễ Phủ Cờ cho Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường

Toi da nhan loi voi anh Nguyen Van Chuyen Hoi Truong Hoi Ai Huu Cuu SVSQ TB Thu Duc va Nien Truong Muc de huy dong anh em lam le Phu Quoc Ky VNCH cho Co Dai Ta Nguyen Manh Tuong vao ngay mai 1/29/2011va Nghi Le Gap Quoc Ky vao 1:00 PM Chu Nhat 1/30/2011

Sang hom nay anh Thai cho biet da da chuan bi Quoc Ky cung nhu Quan Phuc cho Dai ta Tuong, toi da lien lac va da cho nguoi nhan loi editing Video
hien dang cho return call cua Nguoi Quay Video la xong.

Ngay mai anh em co gang van dong chien huu don vi minh den tham du Le Phu Quoc Ky cho Dai Ta Tuong dong du va toi nhan loi voi anh Chuyen va NT Muc voi Danh Nghia Cuu Quan Nhan QLVNCH de to long thanh kinh voi mot Chien Si co rat nhieu cong trang voi quoc gia va dan toc.

Tran trong

Pham Ho`a
CQN/NKT
Hoi Truong Hoi Ai Huu Quan Truong Dong De Nha Trang (THSQ-QLVNCH)

2011/1/28 Doan, Dinh (USADC) <Dinh.Doan>

Kính chuyển trình NT VTMục và BTC tang lể cố Đ/tá NMTường.

DHDinh

From: NKT [mailto:nhakythuat]
Sent: Friday, January 28, 2011 1:26 PM
To: Minh Le; nhakythuat; Doan, Dinh (USADC)
Subject: Xin phụ trách Nghi Lễ Phủ Cờ cho Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường

Xin Thong Bao va Pho Bien

Hello Mr. Phạm Hòa,
Hôm qua Hội Cựu SVSQTB TĐ OC có nhận phụ trách nghi lễ này vào lúc 9 giờ AM ThứBảy 29/1/2011 tại nhà quàn Melrose Abbey, Anaheim, nhưng vì một lý do bất khả
kháng không thể thi hành được. Trân trọng yêu cầu Hòa và quý anh em cựu quânnhân QLVNCH thực hiện giúp công tác cao quý này.
Anh Tô Phạm Thái của Nguyệt San KBC Hải Ngoại sẽ cung cấp cờ. Xin cảm ơn.

Nguyễn Văn Chuyên, Hội Trưởng
Hội Ái Hữu Cựu SVSQTB TĐ OC
và Vùng Phụ Cận

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Những giờ phút cuối của ĐT Nguyễn Mạnh Tường

Những giờ phút cuối của đại tá Nguyễn Mạnh Tường 3

Wednesday, January 26, 2011 12:21 A

Pham Duc Vuong

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Nguyễn Đình Hải-Tri Ngộ

TRI NGỘ

SATURDAY, JANUARY 22, 2011

Nguyễn mạnh Tường trái lại là biểu tượng của lòng thương mến và kính trọng của Quân Dân Bình định .

Trước ngày Hiệp định Paris được ký kết, tôi gặp Trung Tá Nguyễn mạnh Tường ở Phù mỹ , lúc tôi còn mặc nguyên bộ đồ lính dù. Thấy tôi Ông hỏi, nhảy dù sao về đây ,tôi nói tôi bị thương loại 2 không còn khả năng đi cày nên ở Nhảy dùlàm gì nữa , Ông hỏi quê cậu ở đây hả , tôi nói, dạ không, quê tôi ở Tuy phước.Ông nói Tuy phước, Phù mỹ gì chả là Bình định. Ông bỏ đi, tôi nghĩ có lẽ Ông đang bận .

Lần khác cũng tại Phù mỹ, Ông hỏi tôi , thế cậu ở Tiểu đoàn mấy, tôi nói Tiểu đoàn 3, thời Ông Lịch , Ông Phát bây giờ nghe đâu Ông Sơn hay Ông Đồng gì đó tôi không rõ lắm .Ông lại hỏi, thế cậu biết Ông Chinh không , tôi nói Tiểu đoàn 3 không có Ông Chinh, Ông nói không phải , Ông Phan trọng Chinh kia ! . À thì ra Ông Tướng Phan trọng Chinh , tôi quên mất có ai nói với tôi ,hình như Thanh Tuyển , Ngọc Nga hay Tố Quyên gì đó nói là Phan trọng Chinh là Tiểu đoàn Trưởng đầu tiên của TĐ3ND .Tôi hỏi Trung Tá quen với Ông Chinh ?, Ông nói , có, thân đấy ! . Tôi lại nghĩ trong bụng , một Ông Trung Tá nói là thân Ông Tướng thì khó tin . Kể từ đó tôi không mấy thiện cảm với Ông Trung Tá nầy

Làm việc ở Phù mỹ , tôi lại xung đột với Nghị viên Phan Kỳ , Ông nầy kiện tôi về tội hành hung giới chức Dân cử . Hội Đồng hàng Tỉnh yêu cầu Bộ quốc Phòng ngưng chức Đại Úy Nguyễn cẩm Mậu , đặt đương sự trong vòng điều tra của Nha Quân Pháp, nội vụ được phúc trình về BCH Tiểu khu .Thời điểm nầy Trung Tá Nguyễn mạnh Tường đã chính thức đảm nhiệm Tiểu khu Phó với toàn quyền An ninh và Quân sự .. Quyền hạn chưa bao giờ xảy ra đối với các Vị Tiểu khu Phó tiền nhiệm . Bị thẩm vấn bỡi các nhân viên thuộc Tiểu đội Quân cảnh Điều tra Tư pháp, tôi bác bỏ mọi cáo buộc , tôi trình bày rằng , tại sao tôi không có quyền tranh cãi với người Đại diện Dân cử do tôi bầu lên .Đương đơn không có nhân chứng nên nội vụ được phúc trình bãi bỏ .Nghị viên Phan Kỳ là Bạn hữu nghị với Ông Bà Trung Tá Huân, đương kim Quận Trưởng Phù mỹ , nên giữa tôi và Ông Bà Quận trưởng đã đi tới một tình huống gay cấn . Tìm hiểu được nội vụ , Trung Tá Tường bay ra Phù mỹ , Ông nói với Trung Tá Huân , Mậu nó không thể làm việc ở đây được nữa đâu , để tôi đưa nó về Tiểu khu . Thế là tôi bye bye Phù mỹ . Trên chiếc trực thăng bay về Qui nhơn , ông nói, Nhảy dù ở đây chỉ có tôi với cậu , bớt nóng đi , chịu khó làm việc .Vậy là Ông Nhảy dù nầy binh vực tôi . Tôi lại bắt đầu có thiện cảm lại với Ông .

Thiếu tá Hạ xin tôi về phòng 4. Tôi được bổ nhiệm làm Trưởng ban Tiếp liệu với nhiệm vụ điều phối các hoạt động tiếp vận của Tiểu khu . Một sáng nọ , vừa uống xong ly cà phê ngoài quán cóc trước cổng Tiểu khu thả bộ vào phòng làm việc , Ông ngừng xe lại ,bảo tôi lên xe .Tôi hỏi đi đâu Trung Tá , Ông nói, Tôi với cậu đi kiểm tra đạn dược một đơn vị , cậu giữ bí mật nhé , Tôi cần thằng nầy làm công tác đặt biệt ,Tôi nói để tôi báo Thiếu tá Hạ biết , Ông bảo, được rồi “Hạ để tôi nói sau, Ông ấy chưa vào đâu” .Tới Phù cát , Ông bảo tập hợp Đại đội với đầy đủ súng đạn cho tôi kiểm tra. Riêng Ông và Đaị đội Trưởng đem bản đồ ra thật xa , và làm việc rất lâu .Sắp lên xe về lại Tiểu khu , Ông hỏi tôi kiểm tra thấy thế nào , tôi nói nó dư cấp số đạn .Trên đường về Ông cho dừng xe trước một quán xép bên đường , Ông bảo vào đây kiếm cái gì ăn . Tôi nói sao Trung Tá không vể thẳng Qui nhơn ăn bún bò Bà Cam ngon hơn , Ông nói , thôi…ăn đỡ đói cái gì chả được , các cậu cứ đòi ăn ngon có ngày ăn lựu đạn .Qua đó tôi hiểu Ông một là một Cấp Chỉ huy rất cẩn trọng .

Một ngày sau Hiệp định Paris được ký kết , Thiếu tá Hạ bảo tôi lên Trung Tâm Hành Quân gặp Trung Tá Tường .Vừa gặp , Ông bảo tôi về chuẩn bị súng xác ba lô đi Hành Quân với Ông , tôi nói thưa Trung Tá , tôi loại 2 mà đánh đấm cái gì ., Ông nói… đấm mẹ gì , cậu đi với tôi coi lính ĐPQ , Nghĩa quân đánh giặc thua Nhảy dù cỡ nào . Tôi biết Ông đùa cho vui . Đợi Đại Úy Thủy , Trung Úy Pháp , phụ trách truyền tin tới , Ông trải bản đồ ra cho biết tình hình mặt trận Đề gi . Ông chỉ trên hai cái chố , Đài Kiểm báo và Núi Ghềnh đã được ta chiếm lại đêm hôm qua rồi . Quân mình sẽ đổ bộ xưống từ chân núi Bà , Thiết giáp đổ bộ từ biển vào . ĐPQ , Nghĩa Quân , Cảnh sát , Duyên đoàn 21 giữ vững phòng tuyến phía Bắc dọc theo Đầm nước ngọt đã hơn một ngày rồi .Bộ Chỉ huy Tiền phương của mình đặt tại Đài Kiểm Báo , hệ thống liên lạc âm thoại đã được thiết lập sẵn sàng trước 30 phút vừa rồi .Thủy phụ lo các liên lạc hành quân , Mậu lo các liên lạc yểm trợ tiếp vận..Pháo binh và không yểm đã sẵn sàng .

Giờ N . Cuộc hành quân AN DÂN bất ngờ đồng loạt khai diễn . Từ trên trực thăng CNC Trung Tá Tường điều khiển chính xác các mục tiêu oanh kích do các bán phản lực cơ A37và trực thăng võ trang thực hiện , Ông cũng điều chỉnh chính xác các tác xạ pháo binh , đôn đốc quân bạn siết chặc gọng kiềm và ào ạt xung phong vào mục tiêu .Địch quân bị choáng váng trước sức tiến công vũ bão và những cú đấm sấm sét từ các hoa tiêu dũng cảm thuộc Căn Cứ 60 Không quân Chiến thuật . Bị đánh bức tuyến , địch quân phải tháo chạy tán loạn , hàng trăm tên hết đường , tháo chạy ra bãi biển xin đầu hàng và bị ta bắt sống .

Cuộc hàng quân thần tốc chiếm lại Cữa khẩu trọng yếu dã chứng tỏ khả năng và mưu lược của Ông 81, danh hiệu hành quân của Trung Tá Nguyễn mạnh Tường .Sau đó tôi nghe nói Tổng Thống Thiệu đến thị sát mặt trận Đề gi và nhiệt liệt khen ngợi Trung Tá Nguyễn mạnh Tường .Không rõ Ông được tưởng thưởng nhũng gì với chiến công oanh liệt đó !! chỉ thấy Ông vẫn còn đeo lon trung tá làm Tiểu khu Phó với Toàn quyền an ninh và quân sự ,trong lúc đó Đại Tá Chà là Chỉ huy Truởng một BCH chiến thuật dưới quyền chỉ huy của Tiểu khu .

Rồi đến chiến công lớn nữa của Ông trong việc bảo vệ phi trường Phù cát . Cái lon Đại Tá của Ông là một cuộc tranh cãi gay gắt.Đại tướng 4 sao ở Trung ương ngại gì cái lon Đại Tá xa tít ngoài miền Trung. .Mặc ai tranh giành danh lợi , con Mãnh Sư của Chiến trường Bình định vẫn lầm lũi làm việc , tiếp tục góp biết bao công trạng nữa trong hoạt động an ninh lãnh thổ của Tỉnh nhà .

Cuối cùng rồi Ông cũng phải được Tổng Thống Thiệu đặc cách thăng cấp Đại Tá thực thụ tại mặt trận , được ân thưởng Đệ tứ Đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu .Tuy muộn màng , nhưng cũng tạm làm hài lòng thuộc cấp của Ông .Ông Tướng , Ông Tá nào cũng có người thương kẻ ghét . Nguyễn mạnh Tường trái lại là biểu tượng của lòng thương mến và kính trọng của Quân Dân Bình định .

Đại Tá Nguyễn mạnh Tường và Chiến trường Bình định. .

Thời điểm Tướng Ngô Dzu làm Tư lệnh Quân Đoàn và Đại Tá Nguyễn văn Chức làm Tỉnh Trưởng Bình Định . Nông trường 3 Sao vàng xua quân đánh chiếm ba Quận Bắc Bình Định . Cuộc di tản đau thương của Quân Dân Bắc Bình Định để lại dấu ấn khó phai mờ . Dân chúng Thị Xã Qui nhơn tự động di tản gần hết vào Nha trang . Quận Phù mỹ trở thành địa đầu giới tuyến . Thực hiện mưu đồ chiếm trọn nửa Tỉnh còn lại , Sư Đoàn 3 Sao vàng với sự tăng cường một Trung Đoàn Pháo , mở một cuộc tấn công vào Chi khu Phù mỹ và BCH Trung Đoàn 41 tại Căn cứ Trà Quang. Trung Tá Nguyễn mạnh Tường được điều động từ Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn về Tiểu khu Bình định để thành lập Bộ Chỉ huy Chiến Thuật tại Phù mỹ . Có mặt tại tuyến đầu Phù mỹ , Ông đã điều nghiên tình hình , biết trước ý định tấn công của địch . Với tài dụng binh mưu lược , Trung Tá Tường đã góp phần to lớn vào chiến thắng lừng lẫy của Quân Dân Bình định . Sau khi thị sát mặt trận An lộc , Kontum và Quảng trị Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đến thị sát mặt trận Bình định, Ông nhiệt liệt khen ngợi Quân Dân Bình định và tuyên bố “ Cùng với Bình long Anh Dũng , với Kontum Kiêu Hùng , với Trị Thiên Vùng Dậy , với Bình Định Quật Khởi , Quân Dân Miền Nam đã thật sự đánh bại cuộc xâm lược của Cộng sản” .

Để phát huy truyền thống kiêu hùng và danh hiệu QUẬT KHỞI do Tồng Thống trao tặng, Tiểu Khu Bình định âm thầm chuẩn bị cho một cuộc hành quân qui mô tái chiếm lãnh thổ . Cuộc hành quân mang tên của vị Anh hùng aó vải “ Hành Quân Bắc Bình Vương”. Thiếu Tướng Nguyễn văn Tòan được chỉ định làm Tư lệnh Quân Đoàn II và Đại Tá Hoàng đình Thọ được bổ nhậm làm Tỉnh Trưởng Bình định. Với sự cộng tác nhiệt thành của Trung Tá Tường , một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập . Chỉ trong vòng một tuần lễ của cuộc Hành Quân thần tốc , ba quận Bắc Bình định đã được giải phóng , tiêu diệt và bắt sống hàng trăm địch quân , buộc chúng tháo chạy tản mác về Căn cứ Địa 226 .

Tướng Toàn và Đại Tá Thọ đã nhìn thấy khả năng tham mưu và dũng lược của Trung tá Tường trong các chiến tích vừa qua . Tướng Toàn yêu cầu Đại tá Thọ giao Tiểu khu lại cho Trung tá Nguyễn mạnh Tường . Ông chính thức đảm nhiệm chức vụ Tiểu khu Phó với Toàn Quyền Quân sự và An ninh. Lần đầu tiên trong lịch sử của TKBĐ , một Tiểu khu Phó được phép hành xử quyền hạn như một Vị Tiểu khu Trưởng.

Trong một cuộc mạng đàm với Đại tá Thọ , Ông nói “Đại tá và Tôi về đây , cầu Danh thì được , cầu Lợi thì không ở được cái đất Bình định nầy” . Đại tá Thọ hỏi “ Tôi phải làm cách nào? !” . Ông trả lời “ Việc trước tiên là Đại tá hãy đưa Bà Vợ của Đại tá về Sài gòn , khi nào đi phép thì về thăm , đừng cho các bà ở đây , mình sẽ khó lòng làm việc”.Trong tình huống quân sự và chính trị khó khăn của Tỉnh nhà . Là một người khôn ngoan và có nhiều kinh nghiệm xử dụng nhân sự trong lúc cần thiết , Đại tá Thọ đã chấp mọi đề nghị của Trung tá Nguyễn mạnh Tường .Là thanh niên trưởng thành trong cơn sốt độc lập, nhưng lại chứng kiến chính sách khủng bố những người Quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến yêu nước của tập đoàn Cộng sản trong đệ tam quốc tế .Giải pháp Đôc lập , Dân Vi Quý của Bảo Đại đã thu hút nhiều thanh niên yêu nước. Nguyễn mạnh Tường gia nhập Quân Đội Khoá 5 VÌ DÂN. Quan niệm lý tưởng của Quân đội là phục vụ nhân dân ,và ý thức đây là cơ hội cho Ông thực hiện ước vọng của mình , Trung tá Tường đề ra ,kế hoạch rèn cán , chỉnh quân để tăng cường và phục hồi chức năng đơn vị . Ông từ chối Dinh thự , dành riêng cho Vị Tiểu khu Phó . Chỗ ngủ của Ông là một cái giường bố tại Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu , ăn uống tại chỗ ,giản dị như binh lính . Ngoài các công tác tham mưu và hành quân thường nhật , Ông lặng lội và bất ngờ đi sâu đến từng thôn xóm để tìm hiểu về đời sống gia đình của từng Anh Em Nghĩa quân , quan sát tình hình và đời sống dân chúng. Ông cần mẫn làm công việc đó cho tới khi nào nắm vững được các mặt tiêu cực của các quan chức , cán bộ quân đội và chính quyền xã ấp để chuẩn bị lên kế hoạch thích hợp . Tự nhận biết mình đã từng vướng mắc những sai lầm trong quá trình chính trị cá nhân , Ông tâm sự , cách mạng không phải là đảo chánh , cách mạng là sửa đổi cung cách lãnh đạo trong phục vụ quần chúng . Tiểu khu Bình định , có một lãnh thổ rộng lớn với hàng triệu dân số , 14 Quận và Chi Khu ,2 Liên Đoàn ĐPQ , Một BCH Pháo Binh Diện Địa với 3 Khẩu Đội , một Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp vận , .18 Tiểu Đoàn ĐPQ , 12 Đại Đội Biệt lập , 620 Trung đội Nghĩa quân cùng với Lực lượng NDTV và Xây dựng nông thôn . Ngoài Trung đoàn 41 đóng tại Phù mỹ và Trung đoàn 40 đóng tại Căn cứ Đệ đức . Tiểu khu còn được tăng phái 2 Liên Đoàn BĐQ để đáp ứng nhu cầu hành quân chiến thuật . Với một quân số phức tạp trên 2 Sư đoàn và nhằm gia tăng khả năng phối hợp với quân bạn Ông đề ra kế hoạch rèn Cán chỉnh Quân.cho các đơn vi trực thuộc của TKBĐ .

Bảng cấp số Chi Khu Trưởng là Trung Tá , Ông tuyển chọn những Sĩ quan cấp Thiếu Tá có khả năng Chánh trị , Hành chánh và Quân sự để đề nghị bổ nhiệm hầu khuyến khích họ năng nổ làm việc .

Về các Tiểu đoàn Trưởng ĐPQ , Ông tuyển chọn những Sĩ quan cấp Đại Úy có khả năng và đạo đức để giúp Ông thực kế hoạch rèn luyện Cán bộ , chỉnh trang , huấn luyện đơn vị và tạo cơ hội thăng tiến cho họ ..

Các đơn vị phải được luân phiên hoán chuyển một cách công bằng để hành quân chiến thuật và bồi dưỡng huấn luyện

Ông đích thân soạn thảo các tài liệu học tập đạo đức cán bộ, vai trò lãnh đạo chỉ huy và kỷ luật Quân đội.Ông cho thiết lập họp thư Quân ý để tìm hiểu ý nguyện của quân sĩ ngõ hầu soạn thảo các kế hoạch thích hợp, Ông nói , thu thập càng nhiều ý kiến của quân sĩ,càng củng cố vững mạnh vai trò lãnh đạo của cấp chỉ huy .Ông phê phán quan niệm phòng thủ thụ động với việc tăng cường và thiết lập đồn bót trong phối trí lãnh thổ , với Ông theo dõi địch và lưu động đánh địch , chứ không phải ngồi trong đồn chờ địch tới đánh mình . Ông đặt biệt lưu tâm vai trò lãnh đạo của Chi khu và Phân Chi Khu để tác động hữu hiệu đến các hoạt động thường xuyên của nghĩa quân , tránh chủ quan , lơ là khinh địch . Khi Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn triệt thoái về nước , Quân Đoàn đang lo lắng làm cách nào để có lực lượng thay thế , Trung Tá Nguyễn mạnh Tường đã làm ngạc nhiên các giới chức Quân Đoàn . Ông trình bày kế hoạch thay thế Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn bằng 36 Trung đội Nghĩa quân hoạt động hiệu quả hơn , và Ông đã hoàn thành lời hứa một cách xuất sắc .

Về các hoạt động điều phối tại Bộ Tham Mưu Tiểu Khu . Ông cho rằng Sĩ quan Tham Mưu không phải là công cụ để thực hiện chính sách của Đơn vị Trưởng . Ông nhận thấy đó là một thực thể hiện hữu không mấy tốt đẹp . Ông nói , ngay cả Đơn vị trưởng nhiều khi cũng hạn chế về khả năng hoặc lạm dụng quyền lực . Vì vậy Sĩ quan Tham mưu phải quan niệm phục vụ lợi ích quân đội trong phạm vi đặc thù chuyên môn . Ông cũng bác bỏ quan điểm nguyên tắc là nguyên tắc , theo Ông , nguyên tắc chỉ có mục đích biện minh cho tính minh bạch.. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn , Ông yêu cầu các Phòng Ban nghiên cứu các phần vụ kế họach và sẵn sàng trả lời các câu hỏi của Ông .

Ông cũng đã tiên liệu trước việc lần lượt triệt thoái của các lượng lượng Đồng Minh , kèm theo việc cắt giảm quân viện , Ông yêu cầu Phòng 4 Tiểu Khu thiết lập và trình bày kế hoạch tiết kiệm và xử dụng hiệu quả quân trang dụng , Ông lưu ý các sĩ quan điều phối tiếp vận phải kiểm tra thường xuyên , chú trọng đặt biệt việc xử dụng đạn dược phải tương ứng với các thành quả chiến thắng . Pháo binh chỉ được xử dụng khi có yêu cầu chính xác của chiến trường , chấm dứt việc bắn quấy rối như trước .

Ông cũng bác bỏ kế hoạch thiết lập và thông báo các lịch trình thanh tra thường niên . Thanh tra phải được thực hiện bất ngờ và phải được báo cáo kịp thời .Mục đích của thanh tra là phát hiện sai phạm và ngăn ngừa kịp thời sự lạm dụng . Ông luôn dò hỏi , tìm kiếm những cán bộ liêm chính bổ nhiệm vào các chức vụ thanh tra .

Xuyên suốt quá trình thực hiện kế hoạch Rèn Cán Chỉnh Quân , cơ cấu tổ chức , cơ cấu lãnh đạo đơn vị đã thực sự đi vào nề nếp , tạo thành quả hữu hiệu chưa từng có trong các hoạt động an ninh của Tỉnh nhà . Càng ngày BCH Tiểu Khu càng nhận được các thành quả chiến thắng từ các Chi Khu , Liên Đoàn và Tiểu Đoàn ĐPQ đầy khích lệ , đặt biệt là những thắng lợi của nghĩa quân trong công tác an ninh lãnh thổ .

Trước giờ ký kết Hiệp định đình chiến Paris tháng giêng năm 1973, Cộng quân xua một Trung Đoàn chiếm cứ Cữa khẩu Đề gi , nơi đặt Bản doanh của BCH Duyên Đoàn 21 Hải quân . Vì tính cách nghiêm trọng của vi phạm Hiệp định đình chiến , Tổng Thống Thiệu đã yêu cầu Quân đoàn , Khu 22 Chiến thuật và Tiểu khu Bình định bằng mọi cách phải chiếm lại Cữa khẩu . Trước sự ngần ngại của vị Tư lệnh khu 22 Chiến thuật và theo đề nghi Tư lệnh Quân đoàn , Tổng Thống Thiệu đã chỉ định Trung Tá Nguyễn mạnh Tường làm Tư lệnh Mặt trận Đề gi , kèm theo chỉ thị tránh gây thiệt hại cho dân chúng .

Cuộc hành nầy mang tên “ AN DÂN” , được chỉ huy bỡi một cưụ SVSQ khóa 5 VÌ DÂN là Trung tá Nguyễn mạnh Tường . Các lực lượng chủ lực tăng phái được lệnh phải nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh của Tư lệnh Chiến trường . Ông cho lệnh một đơn vị BĐQ bất thần tấn công chớp nhoáng chiếm giữ Đài Kiểm Báo , Cùng lúc đó một Đại đội ĐPQ của Trung Úy Phước chớp nhoáng chiếm giữ Núi Ghềnh . Bị tấn công bất ngờ vào ban đêm buộc địch tháo chạy và bỏ lại nhiều xác chết và vũ khí . Tiếp theo là cuộc đổ bộ bất ngờ 3 Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 22 Bộ Binh từ chân núi Bà phối hợp với một Chi Đoàn Thiết Quân vận đổ bộ từ biển vào . Hai gọng kềm siết chặc ,với lối điều binh thần tốc , đánh địch từ sau lưng và cạnh sườn , buột địch quân co cụm ,một số bị giết , địch phải tự mở đường máu chạy thoát , số còn lại hết đường chạy ra bãi biển và bị ta bắt sống . Phụ giúp Ông trên trực thăng Chỉ huy gồm có Đại Úy Bùi trọng Thủy , Đại Úy Nguyễn cẩm Mậu . Từ không trung Ông vừa điều hợp chính xác các phi vụ không yểm , các tác xạ pháo binh yểm trợ , ngay cả việc tãn thương quân bạn . Trận chiến kết thúc Ông yêu cầu Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến lập biên bản ghi nhận VC vi phạm Hiệp định và yêu cầu Ủy hội ký vào biên bản . Thắng lợi của cưộc hành quân Vì Dân theo Ông : đó là một cuộc hành quân không gây thiệt hại đến tánh mạng và tài sản của người dân . Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và Đại Tướng Cao văn Viên một lần nữa đến thị sát mặt trận Đề gi . Tuyên bố trước đông đảo phái đoàn ngoại giao và báo chí Quốc tế Tổng Thống nói “ Mặc dù đã đặt bút ký vào Hiệp định Hòa bình ,Cộng sản lại tiếp tục vi phạm Hòa bình . Nhưng với tinh thần Quyết chiến , Quyết thắng , Quân Dân Bình định một lần nữa đã đánh bại chúng .Với danh hiệu BÌNH ĐỊNH QUẬT KHỞI đã được trước đây , hôm nay Quân Dân Bình định nhận thêm một danh hiệu mới , Đó là BÌNH ĐỊNH QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG” . Nguyễn mạnh Tường đúng nghiêm đón nhận lời tuyên dương của Vị Tổng Tư lệnh Tối cao . Nhưng bên cạnh Tổng Thống còn có thêm Vị Tướng bốn sao , người đã từng vùi dập Ông trong quá trình quân ngũ . Phần thưởng cho Ông không hề có gì ngoài lời khen và sự thán phục .Tuy vậy Nguyễn mạnh Tường vẫn âm thầm chịu đựng và tiếp tục kiên nhẫn phục vụ .

Kế tiếp là chiến tích của Ông bẻ gãy âm mưu tiêu diệt Phi trường Phù cát , nơi đặt bản doanh Căn Cứ 60 không Quân Chiến Thuật , là một trong những căn cứ không yểm quan trọng của Quân khu 2 , nhưng lại là nơi có phòng thủ yếu nhất. Là người giải mã được đặc lệnh truyền tin của địch . Ông yêu cầu Trung Tá Nguyễn hồng Tuyền ra lệnh cấm trại 100% . Ông tức tốc đặt ngay BCH Hành Quân của Ông tại Phi trường Phù cát , điều động tức khắc trong đêm Chi Đoàn Thiết giáp đang đóng tại đèo An khê của Trung Uý Huỳnh văn Mỹ và Liên đội Trinh Sát của Trung Úy Hồ Khuynh . Hai đơn vị nầy là nỗ lực chính đánh vào cạnh sườn của địch nhằm bẻ gãy hướng tấn công . Dự đón chính xác ý định của địch , với tài dụng binh mưu lược , Ông đã gây thiệt hại nặng nề cho địch. Trung Tá Nguyễn hồng Tuyền và toàn thể Quân nhân các cấp của Căn cứ từ đây xem Ông như là một Chiến hữu ân nhân .

Lần nầy , thượng cấp không thể làm ngơ . Ông được chính thức thăng cấp Đại Tá tại mặt trận và được ân thưởng Đệ tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu . Tuy muộn màng nhưng cũng làm cho THUỘC CẤP và NHỮNG AI mến phục Ông tạm hài lòng . Dù bị bệnh viêm tai nặng do quá trình lâu dài bay bổng chỉ huy hành quân , nhưng Ông không hề khai bệnh . Tuy nhiên công lao của Ông cũng chỉ tồn tại với thời gian nhất định , khi mà nạn mua quan bán tước lại bắt đầu tái diễn . Quân Dân Bình định lại phải mất đi một nhân tài , một cán bộ mẫn cảm !. Ông cáo bệnh từ quan , xin nhập viện vì bệnh viêm tai . Chiến hữu dưới quyền nhiều người đến thăm viếng Ông . Với nụ cười đượm nét ưu phiền , Ông nói “ không thể làm việc được nữa thì phải đi , tôi đã nói lời cảm ơn Ông Thọ đã đến thăm tôi hôm qua” .

Cà Mâu. .

Baì viết tương đối nhiều tiết mục rất xúc tích nhưng thiếu sót nhiều chi tiết quan trong và mời gọi hiểu lầm:

1) ĐT Tường cũng như vua Bảo Đại chưa từng là thành viên của CS đệ tam; Chúng ta biết người làm mai mối cho ĐT Tường là chính trị gia Hồ Hữu Tường thật sự là CS đệ tam nhưng sau khi CS tiêu diệt những nhà cách mạng yêu nước cùng đảng phái như Tạ Thu Thâu …thì Ông HH Tường phải trốn chạy; Ông HH Tường bị giam cùng với ĐT Tường trên côn sơn qua vụ biến động 1960 của Dù với cố TT Diệm và mến ông từ đây;

2) Vụ Phi trường Phù Các: Tướng MINH đã tặng ĐT Tường cái can và cái mũ của ông và từng nói với các anh em không quân là thấy ông ĐT Tường ở đâu ông xin cái gì thì phải coi như ông Minh ra lệnh; Tướng Minh đã cố chạy cho ông ĐT Tường Bảo Quốc và lon Đại Tá nhưng không được thành thử ông phải bay ra tận phi trường phù cát để tuyên dương ĐT Tường trước phi đoàn; so sánh nghĩa cử này với lòng biết ơn của Tr T Nguyễn Hồng Tuyền chúng ta đã thấy sự truy niệm thiếu sót

3) Cùng với vụ số 2) chi đội thiết giáp và Đại Đội trinh sát của Trung Úy Hồ Khuynh (hiện có mặt tại Chicago) phải để cho A Khuynh nói về cách ông ĐT Tường tuyển chọn anh Khuynh đồng thời tại sao anh lại được chọn là chiến sỹ xuất sắc của quân đoàn hai đến hai lần; và lý do nào anh Khuynh được tuyển chọn vào an ninh tiểu khu cho Đại Tá Vỵ người tỉnh trưởng cuối cùng trước khi mất nước; người cấp nhà cho anh Khuynh ở cũng do lời đề nghị của ĐT Tường với thiếu tá Hạ trong tiểu khu; chức vụ này thường là phải tốn tiền đút lót .Trận đánh trên Đèo An Khê phải được anh Khuynh kể với nhiều chi tiết về trung đội Khinh Binh của anh cũng như lý do nào làm những hầm hố của VC đào một nơi mà thiết giáp và Kinh Binh tiến đánh một nẻo; khiến chúng không kịp trở tay (trận này chùng ta có thể coi như trận Normandy tầm cở nhỏ)

4) Lý do tướng bốn sao “trù dập” ĐT Tường rất đơn giản: Hể là Dù mà lại dính tới cách mạng 60 thì phải để ý và bứng khỏi dù; trong vụ 60 ĐT Tường đã từng là sỹ quan tùy viên cho trung tá Dù (quên tên); ĐT Tường ra tòa và bị đầy ra côn đảo vì vụ chính biến này – đồng thời cũng là lý do sau 63 ông tự ý đổi sang bô binh sư đoàn 22 từ đó; chi tiết này có đáng đăng hay không?

5) Không nói đến tướng Ngô Du và ĐT Chức lý do tại sao bị thất sủng

6) Không nói rõ sự tham nhũng của ĐT Thọ và sự thay đổi hàng loạt các tỉnh trưởng sau vụ cha Thanh làm kiết nghị tố cáo TT Thiệu tham nhũng; thời điểm này ĐT Trần Đình Vỵ bị ép buộc phải nhận chức vụ Tỉnh Trưởng cuối cùng cho tới ngày mất nước; đọc bản tin trên chúng ta chỉ hiểu và biết tới ĐT Thọ và chả hiểu sao ông ĐT Tường có thể mạnh miệng với ông Thọ qua cái vụ …xin bà Thọ ở lại Saigon. Chúng ta cần tìm hiểu lúc 75 trách nhiệm cuối cùng của ĐT Tường là gì và lý do tại sao ông cáo bệnh …về hưu

7) Cuộc hành quân Thần tốc tái chiếm ba quận của 14 quận lỵ tỉnh Bình Định cần được chi tiết hơn; Từ ngữ “quật khởi” hoặc tái chiếm lãnh thổ có cần cho ba quận lỵ này không

8) Những điểm son trong bài viết:

Chi tiết về cách sống đạm bạc và sự cư sử Huynh Đệ chi binh của ĐT Tường

Kế hoạch và thực hiện chương trình Rèn Cán Chỉnh Quân

Hoạt động điều phối tại BTM tiểu khu

Tiết kiệm và sử dụng hiệu quả quân trang quân dụng

Kiện toàn phương cách thanh tra

9) Mặt trận Đề Gi cần chi tiết hơn

10) Thiếu sót về quá trình huấn luyện tại Mỹ và những kiện toàn của ĐT Tường cho chiến trường miền nam khiến cho tướng tá Mỹ phải lắc đầu khâm phục

11) Thiếu sót về cách sống trong trại cải tạo và tại sao lại có danh từ Năm Lửa hay Ông Thầy Thiền của ĐT Tường; sau này ĐT Tường còn được HT Thanh Từ phong chức gián tiếp là một thầy Giáo Thọ trong tăng chúng; Tại sao có danh từ “Mãnh Hổ Bình Định” trong quyển Những Trận Đánh Không Tên Trong Quân Sừ (Nhà Văn Trần Thúc Vũ viết)

12) Thiếu sót về cách sinh hoạt của ĐT Tường lúc còn khỏe mạnh với những chuyến đi xuyên bang để xoa nắn huyệt đạo cho các anh em HO

Với tư cách là đệ tử của ĐT Tường về phương diện Phật Pháp nhưng qua những cuộc mạn đàm của ông với các chiến hữu, chúng tôi Nguyễn Đình Hải không khỏi ái ngại khi viết lên đây những dòng chữ tràn đầy cái NGÃ mà sư phụ mình đã nhắc nhở ngày đêm; nhưng vì nhớ lời và phải đem đạo vào đời củng những hạnh nguyện Bồ tát của ông; chúng tôi không khỏi bùi ngùi nói lên những công lao cống hiến cho đất nước của ông với những lời chân thành tránh ngô nhận tối thiểu;

Với quan niệm :Y Liễu Nghĩa Bất Y Bất Liễu Nghĩa xin mạo muội viết ra đây những dòng chữ này như là điệp khúc hồi tưởng nhớ đến công ơn của bậc tiền bối; Lời văn không có nghĩa tường tận chúng tôi đành phải nói cho minh bạch và trong sáng tình tiết hầu tránh ngộ nhận. Ông bác Tường khi kể lại với chúng tôi ông cũng không ngoài mục đích dậy dỗ hoàn toàn không cần đệ tử có thu nhận được hay không; Chúng tôi xin mạn phép không truy lùng ai viết bài này vì nhận thấy không cần thiết; Chúng tôi viết bài này không hỏi ý kiến của ông nhạc (ĐT Vỵ) và cũng dư biết ĐT Vỵ cũng như ĐT Tường …biết thì nhiều nhưng nói thì ít; hỏi 10 câu thì chỉ được trả lời nửa câu vì …tránh đụng chạm

Mong các bậc cha anh hãy vì ông Tường mà chỉ bảo tường tận

Kính thư

Nguyễn Đình Hải

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Danh Sách Những Vị Thăm ĐT Tường ở Bệnh viện

Các Vi thăm viếng ĐT Tường được ghi nhận .

Friday, January 14, 2011 7:06 AM

Hide Details

Cám ơn anh Mậu đã gởi cho biết danh sách quý NT, quý CH đã đến thăm và email hỏi về tình trạng sức khoẻ của Đ/tá NMTường. Tôi xin chuyển tiếp cho những thân hữu biết.

DHDinh

From: mau nguyen [mailto:maunguyen48]
Sent: Friday, January 14, 2011 7:57 AM
To: Dan Yen; saigonquinhon; vumuc
Cc: col.danyen
Subject: Re: Các Vi thăm viếng ĐT Tường được ghi nhận .

Thưa Đại Tá ,

Có nhiều người tới thăm . Vì không có mặt thường xuyên nên không thể ghi nhận hết.

Ngoài Vợ chồng tôi còn có Anh Huỳnh văn Mỹ và Vợ chồng Oánh chia nhau lui tới . Tôi

có làm quyển sổ thăm viếng để tại phòng ĐT Tường , nhưng mấy ngày nay không thấy

quyển sổ đâu cả !!!. Bác sĩ Vương ơi , chỉ có Bác sĩ và Y tá của BV mới được túc trực

bên giường bệnh của ĐT Tường thôi , chứ không phải tôi . Xin đừng quá lời , tôi ngượng

lắm . Có Tr tá Đoàn Thi có email quan tâm về ĐT Tường . Mậu .

— On Thu, 1/13/11, Dan Yen < > wrote:

From: Dan Yen < >
Subject: Re: Các Vi thăm viếng ĐT Tường được ghi nhận .
To: "mau nguyen" < >
Date: Thursday, January 13, 2011, 10:55 PM

Cảm ơn Anh Chị Đại Úy Mậu.

Xin Anh vui lòng cập nhật theo thứ tự sau :

A. Thường Xuyên: Hàng ngày:/ đêm/ nhiều lần :

l.Ông Bà Đại Tá Dan Yen ( Nguyễn Thọ Đan) P.O Box 706 Fairfield,CA.94533.

2.Ông Kỹ sư Vũ mạnh Huy.

3.Ông Kỹ sư Vũ Dzũng

5.Bà Giáo Sư Nguyễn Khuê Diễm.( Trường QuốcGia Nghiã Tử)

6.Bà Tuyết Nhung (Wendy Branton)

7.Đại Úy và Bà Nguyễn Mậu.( tự nguyện thường trực sáng cell:: E.mail:

8.ĐạiÚy Hùynh văn Mỹ

9.Ông Bà Kỹ Sư Nguyễn Ngọc Oánh (tựnguyện thường trực chiều.Cell; )

B Đã thăm viếng 1 lần:

1.Trung Tá .Đặng Đình Giới Khoá 5 Vì Dân….

2 Đại Tá Tống Mạnh Hùng Sư Đoàn 5.BB.

3. Đại Tá Từ Vấn SĐ 5 BB.

3Trung Tá và Bà Phạm Kim Bằng ……….:

2011/1/13 mau nguyen < >

Ông Bà Tr Tá Phạm kim Bằng TĐT/TĐ16ND .Cell # 408-623-0659

Tr Tá Bùi Quyền , Cell # 408-303-8855

Tr Tá Nguyễn mộng Hùng , Cell # 408-489-1050

Đại Tá Từ Vấn BB, Cell # 408-347-9972

Tr Tá Lương văn Ngọ Cell # 408-207-6801

Đại Úy Huỳnh văn Mỹ ( thăm thường nhật ) Cell # 408-386-9113

Th Tá Nguyễn tự Quán , Home # 510-793-8892

Th Tá Man Văn , Cell # 408-668-4746

Đại Úy Nguyễn xuân Phần , Cell # 510-305-5621

Đại Tá Nguyễn đức Chung ( Thăm nhiều lần )

Th Tá Võ tấn Trình , Cell # 714-467-5273

Võ Khánh Hòa , Cell # 408-593-4020

Linh mục Dư văn Sơn , Cell # 714-820-8806

Đại Tá Vũ văn Lộc

Tr Tá Kinh ( Pháo binh ) Cell # 408-250-5326

Phạm Quỳnh Nga ( Con Đại Tá Liễu )

Ông Bà Tr Úy Nguyễn Trung ( Nha Kỷ Thuật ) Cell # 408-834-0649

Đoàn Trọng Đức , Cell # 408-836-4058

Ông Bà Lý Phu và GĐ , Cell # 408-666-7001

Gia đình Nguyễn ngoc Oánh

Đại tá Tự ( nguyên Tỉnh trưởng Ninh thuận )

**** Ngoài ra còn một số Vi có đên thăm nhưng tôi không gặp để ghi nhận

Các Vị sau đây ở xa đã quan tâm gọi Điện thọai thăm hỏi :

Bà Phan trọng Chinh , ĐT # 703-760-0464

Tr Tá Nguyễn văn Cữ , Nguyễn kim Đính , Nguyễn văn Năng ĐT # 469-877-0661

Th Tá Dư văn Hạ , ĐT # 714-554-5814

Đại Úy Cao Xuân Trước , Cell # 651-249-7886

Đại Úy Trần Hú Trắc , Cell # 714-823-5208

Ông Phan thanh Hùng , Hội Phó Hội Tây Sơn Bình Định .

Đại Tá Nguyễn hồng Tuyền ĐT # 510-589-4994

Bác sĩ Phạm đức Vượng , ĐT # 408-591-8434

Th Tá Ngô Tùng Châu , TĐT Tiểu đoàn 1 Nhảy dù . ĐT # 912-246-9500

Đại Úy Khuynh , ĐT # 773-856-3564

Nguyễn mạnh Hùng , Hội Thủ Đức San Diego , ĐT # 619-208-4445

Tr Tá Vũ Mục

Khiêu Long Cell # 858-805-1938

Đặng Văn Trí Cell # 619-471-7511 .

Phượng Tây Đức ( con gái nuôi cuả Đại Tá Tường.)

Loan , Con Đại tá Đăng .

**** Ngoài ra các Anh Phạm Hoà , Nguyễn Điểu , Đoàn hữu Định có emailed cho tôi và quan tâm thăm hỏi ĐT tường .

From: vuong pham [mailto:chiropham]
Sent: Wednesday, January 12, 2011 3:41 AM
To: tapthechiensivnch; manhchu; cqn.vnch; tvn52;tanvu; xangha; letrunghien; lienhoicuusvsqthuduc_usa;lienhoicsvsqtbthuducuc; dugia54; Doan, Dinh (USADC); bernardluong
Cc: Trieu Vu Ngu
Subject: RE: [tapthechiensivnch] Fw: TÌM KIẾM BÀ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG…Ở ÚC….

Kính gửi quý Niên trưởng và quý chiến hữu,
Xin gửi đến quý NT và quý CH một vài tin tức về cựu ĐT Nguyễn Mạnh Tường, nguyên Phụ tá hành quân, của Tư lệnh SĐ 5 BB, QL VNCH
Ngay sau khi ĐT nguyễn Mạnh Tường bi tai nạn (phỏng) phải mang vài Bệnh viện , rất nhiều Niên trưởng và các chiến hữu, thân hữu đã đến tbệnh viện hăm để theo dõi tình trạng sức khỏe của ĐT Nguyễn Mạnh Tường, chúng tỏ ĐT Tường đưọc rất nhiều các chiến hữ quý mến vá quan tâm.
mọi người rất quan tâm đến người chiến sĩ của QL VNCH đã một thời chiến đấu phục vụ quê hương , nhưng trong những ngày về già lại bị thiếu sự chăm sóc của gia đình. Sau khi sống trong nhà dưỡng lão tai miền Nam Cali , Ông đã chuyển lên một nursing home " cao cấp" ở Moss Beach, gần Daly City, California sông chung phòng với ĐT Phạm Văn Liễu. Ông khỏe mạnh hơn ĐT Liễu, đi lại được, môĩ lân chúng tôi có dịp lên thăm đều đưọc găp cả 2 người. Lần đó khỏang 3 tháng trước khi ĐT Phạm V Liễu qua đời. Chúng tôi đế thăm hỏi và mang một số qùa đến biếu Ông (lúc này Ông đang phải ngồi xe lăn) nhưng người y tá săn sóc cho biết vì Ông đang phải ăn uông theo chế độ regime nên không cho nhận các thưục phẩm không do BS chỉ định. Lúc này Ông chuyễn qua một phòng khác cách phòng của ĐT Liễu một khoảng ngắn.
Hôm làm giỗ 49 ngày cho ĐT Phạm Văn Liễu, theo ý của ông muốn được tham dự nên con gái ĐT Liễu đã đến đón Ông tại nursing home để đưa đến Khu Hội Cựu tủ nhân Chính trị bắc Cali vào ngày 18 -12-2010

Tuy bận rôn trong việc tiếp tay với Ban Tổ chưc , nhưng chúng tôi cũng rất vui mừng khi thấy ĐT Nguyễn Mạnh Tường đến tham dự trong tình trạng sức khoẻ khả quan, Ông có thể đi lại mà không cần tới xe lăn, cũng như ngôì ccạn Đô Đốc Trần Văn Chơn, và một vị Thuợng tọa nguyên là tuyên Úy Phât Giáo QLVNCH từ Missouri về tham dự, Ông nói chuyện vui vẻ và hoạt bát khác hẳn với lần chúng tôi gặp tại nursing home.
Không ngờ chỉ mấy tuần sau, vì sơ ý , Ông đã bị phỏng trong lúc ngôi trong bôn tắm để tắm lại mở nhằm nước nóng mà không mở nưóc lạnh để pha .
Dược chở vào cấp cứu tại bệnh viện Bascom ( Valley Medical Center) khoa phỏng. Không ngờ chỉ vi phỏng mà sưc khoẻ và tinh thần Ông suy sụp quá nhanh.
Ngay trong buổi đến thăm , trước tình hình như vậy, những NT và chiến hữu hiên diện đã nghĩ ngay đến việc tìm cách thông báo cho gia đình ĐT Nguyễn Mạnh Tường, và cũng đặt ngay trường hợp xấu nhất là nếu không liên lạc được với GĐ của ĐT thì cac1c anh em cựu quân nhân củ vùng Bay area sẽ đúng ra để lo hậu sự cho ĐT. Người đưọc anh em chỉ định là Cựu Trung tá BĐQ Lương Văn Ngọ (cũng là người Trưỏng Ban Tổ chức lễ tưởng niệm cho cố ĐT Phạm Văn Liễu}, hiện là Trung Tâm trưởng Trung Tâm Điều hợp Tập Thể Chiến Sĩ VNCH vùng Tây Bắc Hoa kỳ. Do đó TRung Tá L V Ngọ đã nhanh cóng chuẩn bị môt chương trìngtang lễm và lo việc hậu sự cho ĐT Nguyễn Mạnh Tương.
Chúng tôi đang theo dõi từng ngày tình trạng sức khỏe và tin tức của ĐT N M Tưong và để thông báo đến quý NT và quý CH biết để cùng chúng tôi và các Hội đoàn Cựu Quân Nhân vùng Bắc Cali chung sức cung nhau lo cho hậu sự của ĐT Nguyễn manh Tường.
Có tin tức gì thêm chúng tôi sẽ cập nhật để gưủi đế quý NT vá quý CH

Pham Duc Vuong

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Giao Chỉ- Tình Chiến Hữu

(Chuyện đầu năm 2011 viết tặng ông đại tá Tập thể Nguyễn Mạnh Tường).

Chuông gọi hồn ai.

Bước vào đầu năm 2011, chiến hữuB.M.Hùng từ Washington, D.Cgửi ra một bản tin hết sức đau lòng. Tin đại tá NguyễnMạnh Tường sắp qua đời trong cô đơn tại nhà thương Bascom, San Jose. Nhắn tin vợ ông đã ly dịvà 2 con bên Úc mau mau liên lạc. Bản tin tiếp theo của liên hội cựu quân nhân Bắc Cali, nhắn anh tổng thư ký,xin chuẩn bi ma chay cho người chiến binh cao niên sắp ra đi mà gia đình đã bỏ rơi.

Kèm theo bản tin rất ngắn nhưng vô cùng đau đớn là một bài viết về cuộc đời chinh chiến của đại tá NguyễnMạnh Tường. Người viết là chiến hữu Trần Thúc Vũ, một sĩ quan đã từng phục vụ lâu dài tại chiến trường Bình Định. Bài báo hết sức chi tiết, hết sức sôi nổi, hết sức nồng nàn. Không những nêu cao thành tích của của ông Tường, mà phô diễn một tình cảm vô cùngtrân quýcủa cấp dưới đối với niên trưởng trong tình huynh đệ chi binh.

Bài báo này xứng đáng là một thiên anh hùng ca của ông đại tá quê Thái Bình. Trong suốt một tuần lễ Email nhận được tới tấp đến sốt cả ruột về chuyện tử sinh của người hùng mặt trận Bình Định. Sau cùng nhận được cả Email của phu nhân đề đốc tập thể Hồ Văn Kỳ Thoại. Chưa hết cô con gái út của tôi, chẳng đọc Email Việt ngữ bao giờ mà cũng nhận được lời nhắn gửi tìm gia đình cho ông già nằm bệnh viện. Cháu đẩy qua cho bố để tiếp tay. Tin bên Úc cho biết đang lụt lớn nhưng xem chừng vẫn có anh em lội nước đi tìm vợ con cho đại tá Tường. Chưa có kết quả.

Error! Filename not specified. Error! Filename not specified.

Đại tá Nguyễn mạnh Tường, hai hình ảnh, một con người…

Đi thăm người cô đơn.

Chẳng biết đầu đuôi, tôi bèn tìm vào thăm. Điện thoại phòng bệnh không ai trả lời, bèn rủ bạn cùng khóa Cương quyết là ông Nguyễn Đình Tạo lên đường. Chúng tôi học khóa 4 phụ Cương Quyết II Đà Lạt 1954. Ông Tường khóa 5 Vì Dân,1955. Có lẽ cùng một đợt tuổi, Chẳng quen biết nhiều nhưng gặp mặt chắc nhận ra.

Ông Tạo nói rằng

“Sao nghe nói có tin “lui” đi rồi”.

“Mình cứ vào Bascom thử coi.”

Hỏi tới hỏi lui ở cái nhà thương mới sửa lại khá vĩ đại, sau cùng người ta tra sổ và cho số phòng.

“À, còn số phòng là còn sống. May quá, nhưng sao lại nằm ở khu bị cháy. Chẳng hiểu tai nạn làm sao.”

Chúng tôi tưởng tượng sẽ gặp một ông già cô đơn buồn tủi, nằm nhà thương cả tháng vợ con không biết tin, anh em cũng chẳng có ai. Nhưng không phải. Đại tá khóa Vì Dân nằm trong phòng đặc biệt. Giây, ống đầy người. Đã 2 tuần rồi chưa tỉnh. Ông bị phỏng nặng phải cho thuốc dịu đau ngày đêm nên mê man thường trực. Lại thêm bệnh tiểu đường nên việc điều trị khó khăn. Phải đến tận nơi mới thấy Nguyễn mạnh Tường không hề cô đơn. Hỏi chuyện cô y tá thường trực nên biết đầu đuôi. Nằm tại khu này được 3 tuần lễ mà đã có hơn l00 lần thăm viếng. Có bạn đứng ngoài phòng kính ngó vào. Có bạn trang bị đồ nhà thương vào luôn bên trong. Ai cũng hỏi han chi tiết. Nhà thương không biết ông già này là ai mà các giới chức vào thăm mệt nghỉ. Luật chỉ cho mỗi lần vào 2 người. Y tá trưởng đặc cách cho vào một lần 4 người. Vì bên ngoài còn chờ nhiều quá.

Số người thăm viếng, hỏi han được lập thành danh sách. Anh em nhà binh đọc qua thấy tên tuổi bằng hữu quen thuộc. Lại nhận ra anh này anh kia, tưởng đã đi xa mà vẫn còn quanh đây. Riêng phần bệnh nhân, chưa có gia đình về thăm, chứ còn phần chiến hữu thì ông đã có quá nhiều. Thừa cán bộ để bổ sung cho mặt trận Bình Định. Dù nằm im một chỗ trong cơn hôn mê, nhưng Nguyễn Mạnh Tường không hề cô đơn.

Nhắc lại từng kỷ niệm.

Khi chúng tôi đến thăm, lại nhân dịp gặp mấy sĩ quan trực. Đại úy nhẩy dù tới lui nhiều lần cùng với cô vợ. Đại úy thiết giáp thì lên phiên trực một mình. Cả 2 anh em đều hết lòng thương mến và ca tụng ông thầy. Tôi chưa từng thấy bao giờ anh em lại nhiệt tình với tấm lòng huynh đệ chi binh như thế. Thường chỉ thấy bạn bè cùng trang lứa, cùng chiến đấu, cùng ăn nhậu hết mình. Hoặc đôi khi thầy trò giúp đỡ nhau nên trở thành ơn nghĩa. Nhưng anh em đi với ông thầy Nguyễn Mạnh Tường thì chỉ có từ chết đến bị thương. Vậy mà sao lại hết lòng với nhau, dù cho cuộc binh đao đã có đến 35 năm xưa cũ.

Hai vợ chồng ông nhẩy dù kể chuyện ông thầy anh hùng và xuất sắc vang cả nhà thương, tôi phải kéo anh em ra một góc. Ông thiết giáp đem quân từ Pleiku xuống duyên hải tham dự trận giải cứu căn cứ không quân đã hạ một câu nhẹ nhàng.

“Ông Tường là mãnh sư của Bình Định.

Khi ông còn trung tá mà đã chỉ huy các đại tá.”

Trong cuộc chiến tại Việt Nam, mong được cấp tướng khen cấp tá để đường công danh thuận buồm suôi gió. Nhưng hơn một phần ba thế kỷ đã qua đi, cấp úy khen cấp tá mới thực là tấm huy chương vàng ngọc. Ông già mãnh sư một thời, nằm khò khè bất động là người nhận được những tấm huy chương cao quý đó. Anh em bảo tôi, bác phải đọc câu chuyện của Trần Thúc Vũ.

Error! Filename not specified.

Anh em thăm viếng ngồi chờ tại bệnh viện Bascom, San Jose.

Đọc lại Tiểu sử.

Nghe lời anh em, tôi về đọc lại tài liệu.Trước tiên là tiểu sử ông này hết sức đặc biệt. Bắt đầu từ trung úy nhẩy dù đã tham gia đảo chánh ông Diệm. Trong lúc tư lệnh Nguyễn Chánh Thi và ông Liễu chạy quaCambốt,thì ông Tường và anh em bị đi tù Côn Đảo cùng cụ Phan khắc Sửu. Trải qua 4 năm từ 1960 đến 1964 mới trở lại quân đội, sau cùng về sư đoàn 22 bộ binh với cấp bậc trung tá.

Đại tá công binh Nguyễn văn Chức về làm tỉnh trưởng Bình Định bèn yêu cầu tổng tham mưu và quân đoàn đưa về mấy chục ông trung tá để tăng cường cán bộ cho mặt trận duyên hải của vùng II chiến thuật. Từ đó trung tá Nguyễn Mạnh Tường trở thành anh hùng của vùng đất ngày xưa là quê hương Bắc Bình Vương, Nguyễn Huệ. Sau Bình Định ông về làm đại tá tư lệnh phó cho tướng Lê Nguyên Vỹ, sư đoàn 5 và trải qua 13 năm tù cải tạo. Cho đến năm 93 còn bị kết án thêm 12 năm tù phản nghịch. Mãi đến 1998 mới được quốc tế can thiệp rồi HO qua Mỹ 1999. Ông xa gia đình từ 1975, vợ con vượt biên đi Úc, và từ ngày đó đến nay chưa gặp lại.

Những trang chiến sử.

Tiểu sử Nguyễn Mạnh Tường đã ly kỳ khác biệt, nhưng trang chiến sử của ông mới thực là phi thường. Đất tung hoành của ông một thời là Quy Nhơn, Bình Định. Một tỉnh lớn nhất của miền Nam với 14 quận, 10 ngàn cây số vuông. 120 cây số dọc từ Cù Mông xuống Bình Khê. 90 cây số ngang từ biên giới Pleiku xuống bờ biển Phương Mai. Đây là chiến trường thử lửa của các đơn vị danh tiếng nhất của cộng sản và liên quân Việt Mỹ. Các đơn vị Hoa kỳ lần lượt tham chiến tại Bình Định là Sư đoàn không kỵ số 1, Sư đoàn 101 bộ binh, Lữ đoàn dù 173, và sư đoàn Mãnh hổ Đại Hàn. Phía Việt Nam có 2 Trung Đoàn của sư đoàn 22 bộ binh, 18 tiểu đoàn địa phương quân, 12 đại đội biệt lập, 620 trung đội nghĩa quân. Bình Định cũng là nơi có trên 10 tiểu khu trưởng thay phiên nhau. Trước sau chỉ có một mình tiểu khu phó Nguyễn Mạnh Tường là nổi bật.

Thành tích của ông Tường là xử dụng địa phương quân đánh giặc như tổng trừ bị của tổng tham mưu. Ông cả gan giả lệnh của quân đoàn để điều động thiết giáp tham chiến. Xin biệt động quân qua đường đi huấn luyện để tham dự hành quân.

Với quyết tâm và tài dùng binh của cấp sư đoàn, ông đã tạo chiến thắng Ba Gi lừng danh vùng II chiến thuật. Với mưu trí và nhiệt huyết can trường, ông đã cứu được căn cứ không quân Phù Cát thoát khỏi trận tấn công khốc liệt của cộng sản.

Và cũng chính con người đó, say men với binh đoàn, nên vợ con từ Saigon ra thăm, chờ đợi 2 tuần không gặp phải quay về. Phải chăng đây là nguyên nhân sự tan vỡ gia đình không hàn gắn được 35 năm sau.

Đoạn kết của câu chuyện tình:

Trong số anh em cùng khóa, anh Thọ Đan là một trong những người thân tín và biết nhiều về bạn Tường. Anh biết từ đầu đến cuối cuộc tình và cũng là người được Tường ủy nhiệm chính thức về các quyết định y khoa khi người bệnh không tỉnh lại. Từ Côn Đảo trở về, chính cụ Phan khắc Sửu làm mai mối cho anh Tường lập gia đình với con một ông Bang Trưởng người Việt gốc Hoa. Cuộc tình duyên như thế phải chăng là lý do cho định mệnh chia cắt sau này.

Anh chị sinh được 2 con, một trai, một gái. Cuối tháng 4 năm 75, một lần nữa anh bỏ cơ hội ra đi cùng gia đình để lên sống những giờ cuối cùng với Sư đoàn 5. Sau này, khi anh đi tù thì chị và gia đình gốc Hoa vượt biên qua Úc. Từ đó không hề liên lạc. Khi anh được trả tự do, đã vào chùa ở Saigon đóng vai cư sĩ. Tại đây anh có dịp cưu mang giúp đỡ một cô bé bất hạnh. Cô này hiện đã trưởng thành, có gia đình bên Đức và là dưỡng nữ còn liên lạc với cha nuôi. Khi HO vào Mỹ, anh Tường đã có lần qua Úc nhưng vẫn không gặp được vợ con. Chuyện gia đình phức tạp và hết sức tế nhị chỉ còn lại những tin tức rất mong manh. Con trai Nguyễn Mạnh Tuân hiện là bác sĩ, cô con gái Nguyễn Tường Ngọc Hương trở thành phi công lái máy bay thương mại. Chẳng hiểu duyên cớ vì sao mà bây giờ các con chưa tìm gặp lại thân phụ. Hay là phép lạ trùng phùng chưa đến lúc xẩy ra vào giây phút cuối. Từ Việt Nam qua Hoa Kỳ, Nguyễn mạnh Tường vẫn nương náu cửa chùa. Từ chùa Saigon đến chùa San Diego. Rồi tuổi già đưa anh vào nursing home.

Sau cùng bạn Vì Dân, Thọ Đan đưa ông Vì Dân, Mạnh Tường từ San Diego về Half Moon Bay, tại dưỡng đường cao niên ở miền Nửa vừng trăng khuyết.

Tại đây lại có cuộc tao ngộ trùng phùng của 2 tay đảo chính, Đại tá Phạm văn Liễu, gốc thủy quân lục chiến đã nằm chờ đại tá Nguyễn Mạnh Tường, gốc nhẩy dù. Một ông đã ngoài 80 và một ông đã hơn 7 chục. Trong tình chiến hữu thì vẫn là huynh đệ chi binh. Lại thêm hoàn cảnh cũng là những tay hảo hán Bắc Kỳ, mộtthờichọc trời khuấy nước.

Cùng nằm một phòng tại quán trọ cao niên cạnh ghềnh đá của thị trấn bên con đường liên tỉnh lộ số 1, ngó ra biển Thái Bình. Mãnh sư mũ đỏ và cọp biển mũ xanh bây giờ đều là những anh hùng thấm mệt. Bằng hữu một thời tuy còn lai vãng nhưng chẳng thể nào gần nhau như trong doanh trại ngày xưa. Một ông vợ chết ngồi xe lăn, đẩy ra đẩy vào lại gặp ông bị vợ bỏ.

Rồi sau cùng bác Phạm văn Liễu ra đi cũng âm thầm như khi ông đến bãi biển Nửa vừng trăng khuyết.

Khi anh em tổ chức tưởng niệm ông Liễu ở San Jose thì ôngTườngđến dự. Rồi tai nạn xảy ra. Ghé ở nhà anh bạn trẻ vong niên, đêm khuya ông lúng túng một mình, nước sôi nhà tắm lột mất nửa người. 911 gọi đến để Bascom đón người anh hùng vào nằm ở phòng hồi sinh đã mấy tuần mà vẫn chưa tỉnh.

Tình chiến hữu.

Nhắc đến tình chiến hữu chung quanh ông Tường, anh Thọ Đan nói rằng người nối vòng tay lớn chính là Vì Dân, Vũ trọng Mục. Ông Mục nốt kết anh em từ trong ngục tù ra ngoài thế giới tự do. Từ tiểu khu Bình Định đến sư đoàn 5, và ông động viên cả con cháu trong nhà. Kỹ sư Oánh ở Union City cũng phải công nhận. Tình chiến hữu còn hơn anh em ruột thịt.

Câu chuyện anh hùng xưa, nhớ thời niên thiếu đến đây xin tạm ngưng. Nhưng càng tìm hiểu càng thấy mối tình chiến hữu trong buổi hoàng hôn thật hết sức lạ lùng. Mỗi ngày đều có anh em kể chuyện mới về ông Tường và gửi hình ảnh của các bạn đến thăm ngồi dài ở nhà thương Bascom.

Còn chuyện bên hành lang mới thực là ly kỳ. Số là khi 2 ông Liễu và Tường vào nhà dưỡng lão bên bờ biển, Mỹ hỏi là nếu có chuyện thì các bác muốn sống bằng máy nằm chờ hay chấp nhậnđi luôn. Hai ông già nói rằng bây giờ còn nằm chờ gì nữa. Xin chọn đi luôn. Mỹ bèn đeo vào tay 2 ông colonel mỗi ông một chiếc vòng để khi hữu sự không cần sống bằng máy móc. Xin để chúng tôi đi luôn. Bác Liễu thì đã đi luôn nhẹ nhàng, nhưng bác Tường may mà có chiến hữu vào kịp để chạy giấy tờ đại diện tháo cái vòngđi luôn.Nhờ vậy ông còn được chạy chữa đến hôm nay.

Chuyện hành lang lại kể rằng, bác Tường có qua Úc thăm vợ con. Nhưng vợ không nhận chồng. Thấy bà đi ngang qua rồi đi thẳng. Con Mãnh sư chiến trường Bình Định bây giờ đã thành một cư sĩ hiền lành, đành nuốt lệ quay về.

Chàng có thể nghĩ rằng:

“Em đi qua đời anh, không thấy gì sao em?”

Nàng đã có suy tư khác.

“Ông trở về dang dở đời tôi”.

Cũng tại hành lang nhà thương, chiến hữu lại bàn. Bây giờ nếu thầy Tường qua khỏi phải chăng lại về Half Moon Bay. Nếu ông đi luôn, rồi đây ai chẳng đi luôn, thì tang lễ làm sao. Nghe các ông khóa Vì Dân nói rằng sẽ không hỏa thiêu. Anh em chúng tôi sẽ chôn cất để sau này gia đình còn viếng thăm. Chuyện gia đình, không ai biết chắc được, có thể họ bay qua kịp thời. Nếu không sau này các con ông sẽ đến thăm, nếu không con thì các cháu sẽ đến thăm. Và các chiến hữu sẽ đến thăm..

Câu hỏi nêu lên là, vậy sẽ đem thầy về nằm tạm ở đâu. Các bạn Vì Dân lại nói rằng. Dưới Nam Cali có chỗ rồi. Bác Tường về đây nằm với chúng tôi. Hơn 50 năm trước, anh em ta đã Vì Dân mà ra đời thì nay ta lại Vì Dân mà nằm xuống bên nhau.

Không đưa ông về được Thái Bình, không về được Quy Nhơn, cũng chẳng về được Bến Cát, thì ta về đất Bolsa.

Đó là nói chuyện sau này, bây giờ xin cầu cho ông tháo được cái vòng “Đi luôn” đeo ở tay rồi trở về với quán trọ bên đường ở miền Nửa vừng trăng khuyết.

Ở đó vẫn còn các bạn Tây Đầm chờ ông thầy ra tay huyệt đạo chữa bệnh cao niên mỗi khi trái gió, trở trời. Ông sẽ ngồi xe lăn cho trọn kiếp trầm luân, ngày ngày ngó xuống phía Nam Bán Cầu, theo dõi bước chân của cô vợ Tàu lai và 2 đứa con đã trưởng thành bên Úc.Vợ đành như cơn gió thoảng, con đành như hơi rượu cay.

Ngày xưa ông đã bỏ vợ con để sống chết với binh đoàn, ngày nay ông chỉ còn mong được bao bọc tấm thân già trong chút tình chiến hữu.

Giao Chỉ, San Jose.

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Đại tá Trần Đình Vy- Thương Tiếc Nguyễn Mạnh Tường


Bai cua Dai Ta TRan Dinh Vy

Tuesday, February 1, 2011 9:39 AM

Hide Details

Anh Tuong Thuong Tiêc,

Khi nghe tin Anh da vinh viên ra di! Không làm sao Tôi co thê giu duoc binh tinh, ngôi yên mà không nghi vê Anh!

O môt Phuong troi xa xam, Tôi da theo doi tinh trang suc khoe cua Anh hàng ngày tu luc Anh gap nan.Ngày Anh ra di, Tôi vân chua tin ! dên nay su that da dên và Tôi chi con biêt thuong Anh, nho Anh, và tiêc mât môt nguoi ban nhu Anh.

Anh xuât thân khoa 5 vi dân, sau khi ra truong anh da dân thân vào miên khoi lua cua su doàn 3 da chiên, sau môt thoi gian Anh buoc chân vào gia dinh Canh Sat Da Chiên, và rôi Anh sang phuc vu tai so ky thuât cua Quân Luc Viêt Nam Công Hoà, toi dây, Tôi không quên on Anh da ra don Tôi tai phi truong Tân Son Nhât vào nam 1963, sau 3 nam luu vong dê dua Tôi vê nhà nguoi quen o Phu Tho.

Tu ngày do, Tôi và Anh xa nhau, môi nguoi môt nga, trên môt chiên truong qua rông nên rât kho gap lai nhau, nhung không phai là duyên tinh cua chung ta da hêt.

Sau Têt Mâu Thân 68, Tôi ra nhân lanh Trung Doàn 41, Su Doàn 22 Bô Binh, thi tinh co gap lai Anh o Bô Tu Lênh Quân Doàn II. Sau mây nam lien tran giu mien duyên hai cua Binh Dinh, Tôi tro lai Bô Tông Tham Muu, Tông Cu Quân Huân, môt thoi gian ngan Tôi lai tro ra lân thu hai vê Su Doàn 22 Bô Binh dê giu chuc vu Tu Lênh Pho cho Dai Ta Lê Duc Dat, thi luc này Anh là Tiêu Khu Pho, Tiêu Khu Binh Dinh. Vào thoi diêm này, Tôi và Anh co nhiêu dip gap nhau dê tâm su, hoac làm viêc chung voi nhau.

Khi Su Doàn 22 Bô Binh bi tan da tai mat trân Darto, Dai Ta Lê Duc Dat da hy sinh cùng Su Doàn. Sau vu thât bai cay dang này, Tôi lai xin tro lai Tông Cuc Quân Huân, và phai chang sô phân Tôi da gan liên voi vùng II, nên chang duoc bao lâu, Tôi lai duoc chi dinh ra Tiêu Khu Binh Dinh. Luc nây Anh vân con là Tiêu Khu Pho, nhung vi nhu câu công vu và khân câp cua chiên truong, Anh da duoc thuyên chuyên vê làm Phu Ta Hành Quân Su Doàn 5 Bô Binh.

Ngày Anh xa Binh Dinh, Tôi tiên chân Anh, Anh noi : Anh rât tiêc không con o Binh Dinh, noi Anh thich hop nhât. Co nhiêu nguoi khi thuyên chuyên ra vùng II, ho co cam tuong nhu by di dây. Con Tôi và Anh, vùng II là dât dung vo cua chung ta. Môt bang co không thê chôi cai duoc là: suôt thoi gian Anh làm Tiêu Khu Pho, Anh da mang lai su yên lành cho dân, Anh da chiên thang ve vang tran giai toa Dê Gi, và Anh da de hep dôi Phuong trong tran danh giai toa Phi Truong Phu Cat. Anh da làm Su Doàn 3 sao vàng cua dich by rung dông ! Anh rât co kinh nghiêm vê Tham Muu, vê diêu quân, và danh gia dich quân rât chinh xac, trên cac chiên truong Anh thang nhieu hon thua. Ngoài ra duoc Tiêu Khu Truong bât dèn xanh, Anh da biên cac Tiêu doàn Dia Phuong Quân, Thành nhung don vi Tac chiên, chu không dê luc luong này an binh bât dông, chi co bao vê câu, duong xa mà thôi.

Nhung dia danh: Phù My, Phù Ly, Phù Cat, Hoài Nhân, An Nhon, Bông Son, Vân Canh, Binh Khê, không con xa la dôi voi Anh.

Anh Tuong thuong tiêc :

Tôi rât mên phuc Anh. Tôi con phai hoc o Anh nhiêu diêu : Anh gioi vê Tham Muu. Rât co nhiêu kha nang noi chiên truong suy luân rât chinh xac. Tôi rât thong cam và chia se voi Anh vê co su ‘bât công’ trong cuôc doi binh nghiêp cua Anh, nhung Anh da coi nhu môt con gio thoang, và chi con biêt cham chu vào nhiêm vu. Anh da làm tron bôn phân cua nguoi trai thê hê.

Khi ‘di tù’ Anh da là môt tù nhân guong mâu cua Quân Luc Viêt Nam Công Hoà, bât khuât, không nan long, Anh da tranh thu thoi gian trong ‘tù’ dê tao cho minh co duoc môt hành trang, sau này nêu con sông tro vê, Anh se mang kinh nghiêm cua Anh ra dê giup nguoi, giup doi.

Khi ra khoi ‘tù’ Anh lai cham phai su thât phu phàng ! con nhuc nhoi, cay cu chon trong ‘tù’! nhung Anh da kiêm chê và sông cuôc doi ‘cô don’ hàng ngày di giup, di chua bênh chon hung ai câu dên Anh. Co môt lân vào nam 2005, Anh sang Âu Châu và co ghe tham Tôi, Tôi và Anh rât vui mung gap lai nhau, ngôi bên nhau nhac lai nhung ky niêm Binh Dinh Nam Xua. Hôm ra vê Tôi tiên chân Anh và tang Anh môt ky vât: là môt ao dù dê khoac ngoài, khi troi lanh, Anh rât cam dông.

Anh Tuong oi ! Tôi co thê tom tat lai nhung gi Tôi biêt vê Anh nhu sau : cac don vi mà Anh da phuc vu

Anh dên : moi nguoi dêu mong doi

Anh o : nguoi nguoi thuong mên

Anh di : tât ca dêu luyên tiêc

Cuôc doi Anh là nhung chuôi ngày Hy Sinh, nhin nhuc, can dam và chiu dung am thâm. Anh da thuc hiên tu tuong cua thanh PHANXICO, trong kinh Hoà Binh : Lây Chua tu nhân, xin cho con biêt mên yêu và phung su Chua trong moi nguoi dê con dem yêu thuong vào noi oan thù den thu tha vào noi lang nhuc. Nhung ngày cuôi cua cuôc doi Anh, Anh sông rât don so và Thanh Thiên.

O bên này bo Dai Duong, vi ly do suc khoe , Tôi không sang duoc dê tiên Anh dên noi an nghi ngàn thu, nhung vào gio tu biêt dau thuong, Tôi se huong vê Anh và câu nguyên cho Anh.

Anh da nhay saut cuôi cùng dê vê trên Thiên Quôc, o do co Thanh Michel quan thây cua nhây dù Quôc Tê, và Thanh Thomas quan thây Anh da chon khi Anh chiu phep rua Tôi, se don Anh và dua Anh vào thiên Dàng. Noi do không con bât công, không con dau khô.

Lây Chua tu Nhân, xin Chua khoan dung tiêp nhân nguoi Anh em cua chung con, mà Chua vua goi vê cùng Chua.

Xin Vinh Biêt Anh

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Một người Pháp viết về Mãnh Sư Bình Định

13. Un officier sud-vietnamien
Le témoin : Trân Thuc Vu :
– Né dans le Nord ViêtNam
– Officier d’observation aérienne de la 219e escadrille Head hunter
– Adjoint au QG de la guerre psychologique de la province de Bình Dinh
– Adjoint au PC des opérations de zone de Bình Dinh
– Après 1975, emprisonné 12 ans dans les camps du Nord-ViêtNam (la 1ere fois)
– Emprisonné une 2e fois pendant 6 ans sous l’inculpation ‘‘a essayé de renverser le gouvernement’’
– Extradé hors du ViêtNam en septembre 1998
– Vit actuellement en Californie

200
Un officier sud-vietnamien
(Mãnh Su’ Nguyên Manh Tuòng)
La province de Bình Dinh est la plus grande du Sud-ViêtNam avec 10 000 km carrés. Depuis le col de Cù Mông jusqu’au col de Bình Dê, la province fait 120 Km de long ; du cap Mui Phuong Mai jusqu’à la ville de Pleiku , elle fait 90 Km de large. Les trois quarts de sa surface sont recouverts de montagnes qui abritent les troupes nord-vietnamiennes.
En 1972, le colonel Nguyên Van Chuc, gouverneur de la province de Bình Dinh et responsable de la zone militaire du même nom, demande au GQG de Sàigon de lui envoyer des lieutenants-colonels de toutes les spécialités en renfort. Sa demande est exaucée et 30 lt-colonels doivent venir s’installer dans la province.
Parmi eux, le lieutenant-colonel Nguyên Manh Tuòng qui était jusqu’alors directeur du Centre des Opérations de la 2e armée.
Grâce à son charisme et à sa compétence, doublés d’une humanité plutôt rare chez un militaire, M Nguyên Manh Tuòng redresse le moral des troupes et reprend en mains les forces locales Dia-Phuong-Quân. Ces derniers ont la mauvaise réputation de ‘‘combattants de 2e ordre’’, alors qu’en fait, ils sont toujours face à l’ennemi, dotés d’un armement vétuste (certains ont encore comme arme individuelle le vénérable MAS 36* ou la gentille petite carabine US M1 semi-automatique).
Le lieutenant colonel réorganise les forces locales, choisit lui-même les hommes de valeur pour les envoyer faire des stages de commandement, dote ces forces d’armes plus récentes et s’occupe personnellement de leur ravitaillement. En quelques mois les forces locales acquièrent la valeur d’une unité combattante ‘‘normale’’.
* MAS 36 : fusil à verrou fabriqué par la manufacture d’armes de St Etienne en 1936.

201
Grâce à M Nguyên Manh Tuòng, plusieurs victoires sont enregistrées dans la province de Bình Dinh, victoires sur l’ennemi mais aussi victoire sur le plan mental.
Une des ‘‘oeuvres’’ les plus remarquables de M Nguyên Manh Tuòng est peut-être l’opération qui consiste à briser l’encerclement de la base Dê-Gi.

202
La base Dê Gi
(Trân danh giãi toã Dê Gi)
La base Dê Gi se trouve sur une langue de terre donnant sur une embouchure de la mer de l’Est, entre les deux districts de Phù My et Phù Cat (province de Bình Dinh). La base est placée sous la direction du commandant de marine Cat. Au nord de la base, sur une petite montagne se trouve une tour d’observation, Dài Kiêm Bao. A l’ouest la nationale 1 serpente le long d’une rivière qui se déverse dans un lac nommé Dâm Nuoc Ngot (Lac de l’eau douce) Dê Gi est une base d’observation ultra-sophistiquée donnant sur la mer et capable d’en contrôler une grande partie.
Début janvier 1973 : La porte maritime de Sa Hùynh (située à l’extrême-nord de la province de Bình-Dinh) a été reprise par les soldats de notre 2e division, coupant ainsi tout le ravitaillement en nourriture et en armement de l’ennemi. D’autre part, les forces communistes qui étaient très présentes dans les montagnes de Bình Dinh sont maintenant pourchassées par les forces locales Dia-Phuong-Quân qui se battent aussi vaillamment que des rangers.
L’Etat-Major communiste est courroucé et impatient de s’emparer au moins d’une porte maritime, en vue des négociations qui auront bientôt lieu. Le général Rouge Chu Huy Mân est obligé d’accepter le plan d’attaque proposé par son commandant Võ Van Ung. Ce dernier ne lui a-t-il pas déjà signé une ‘‘promesse d’éclatante victoire’’ ?
Le 27 janvier 1973, jour de la signature des accords de Paris (vive la paix !), l’offensive communiste se déclenche (vivent les signatures des accords !)

203
La tour d’observation au nord de la base, gardée par quelques marins de la 21e brigade côtière tombe très vite aux mains des ennemis, largement supérieurs en nombre.
La montagne Gênh qui surplombe la base Dê Gi était sous la garde d’une unité sud-coréenne qui s’est retirée sans prévenir qui que ce soit. Les Rouges s’y installent avec canons et bagages.
8 h du matin, le 27 janvier 1973, la première heure de l’entrée en vigueur des accords de cessez-le-feu signés à Paris : Des milliers d’obus tirés de la montagne Gênh et de la tour d’observation tombent sur la base Dê Gi.
Tactique classique : après le bombardement, les marées humaines. Les marins de la base se battent à 1 contre 10 mais réussissent à repousser l’ennemi.
Par porte-voix, les communistes appellent alors les marins à la reddition. Le commandant de marine Cat reproche alors aux Rouges de violer les accords de Paris, ce à quoi le commandant communiste Vo Van Ung répond avec une mauvaise foi :
– « Selon l’heure de Hà-Nôi, ce n’est pas encore l’heure d’entrée en vigueur du cessez-le-feu ».
Pour impressionner les défenseurs de la base, le commandant communiste coupe la tête d’un pauvre Dia-Phuong-Quân (force locale sudiste) qu’il a capturé et fait transporter le corps décapité à la base, avec ces mots :
« Se rendre, c’est vivre ; résister c’est la future décapitation pour tous ».
Loin d’impressionner les marins de Dê Gi, cet acte barbare perpétré par un ‘‘officier’’ ne fait que renforcer la détermination des défenseurs de Dê Gi. Même les cuisiniers de la base demandent à ‘‘faire le coup de feu’’ sur ces sal…

204
De nouveau les bombardements reprennent, puis les marées humaines. Mais Dê Gi tient bon et des dizaines de cadavres des assaillants jonchent le périmètre de la base.
Cette première violation des accords de Paris est portée à la connaissance des 4 délégations étrangères chargées du contrôle du cessez-le-feu. Le chef de la délégation polonaise ne peut nier l’évidence et est obligé de signer le procès verbal (ce qui lui vaudra d’être limogé un peu plus tard).
Sur ordre du GQG de Sàigon, l’Etat-Major de la 2e armée se réunit à l’aéroport de Phù-Cat (sur le 14e parallèle, dans la province de Binh-Dinh) pour contrer l’encerclement de la base Dê-Gi. Sous l’autorité du général 3 étoiles Nguyên Van Toàn, patron de la 22e division d’infanterie, les officiers sont en train d’échaffauder des plans quand un télex urgent venant de la Présidence-même désigne le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng comme chef suprême des opérations.
On saura plus tard que les habitants des deux districts Phù-My et Phù-Cat ont demandé expressément au président de la république sud-vietnamienne, par l’intermédiaire de leurs députés, de nommer le lieutenant-colonel Nguyên manh Tuòng comme commandant des opérations de brisure d’encerclement de la base Dê Gi.
En effet, les habitants de la province se souviennent que toutes les opérations menées par le lieutenant-colonel Tuòng dans la région furent peu coûteuses en vies humaines et en habitations pour les civils.
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuong accepte la mission qu’il baptise ‘‘An-Dân’’ (rapporter la paix au peuple) et demande l’autorisation de ne rien dévoiler de ses plans d’opération, même à ses collègues.

205
Cette manie du secret a déjà porté ses fruits au cours des opérations précédentes et le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuong a l’habitude d’agir sans en référer à ses supérieurs ni au Centre des Opérations de la province.
Pour la brisure d’encerclement, le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuong dispose de 7 jours et des unités suivantes :
– 3 bataillons de la 22e division d’infanterie
– 1 régiment de cavalerie avec chars M 113
– 1 bataillon d’artillerie
– 1 compagnie de reconnaissance (trinh sat)
– 1 batterie de 115 mm
– 1 bataillon de forces locales Dia-Phuong-Quân
– et le 7e groupe de bataillons Biêt-Dông-Quân (rangers) ramené de la 1ere zone militaire, comme forces de réserve.
Le rapport des forces est de 3 à 5 en faveur de l’ennemi.
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuong demande qu’une compagnie de Biêt-Dông-Quân soit missionnée pour reprendre la tour d’observation située au nord de la base, tandis qu’une compagnie de reconnaissance de la 22e division aille bouter les Rouges hors de la montagne Gênh.
Le patron de la 22e division, le général Phan Dình Niêm, un peu jaloux de ce colonel, rejette la requête en prétextant l’état de fatigue de ses ‘‘recon’’ ; ce à quoi le lieutenant colonel répond avec un sourire :
– « Dans ce cas, je prendrai une compagnie de mes forces locales Dia-Phuong-Quân. »

206
Les forces locales Dia-Phuong-Quân ont souvent une réputation de ‘‘pantoufflards’’ ou de combattants de seconde zone… mais les DPQ de la province Bình-Dinh, sur l’initiative du lieutenant colonel Nguyên Manh Tuong, sont devenus depuis longtemps une unité bien entraînée, comparable à une bonne unité d’infanterie.
Après la réunion, le lieutenant colonel Tuòng s’entretient directement avec le lieutenant Phuoc des forces locales et lui demande de surprendre les Rouges de la montagne Gênh, dans le laps de temps le plus court. Le lieutenant Phuoc répond :
– « Depuis ma tendre enfance, j’ai gardé les buffles dans ces parages et je connais chaque caillou, chaque arbuste de cette montagne. Je vous promets qu’en trente minutes, je ficherai en l’air ces ‘‘sal…’’. La meilleure méthode, c’est à coups de grenades.
– C’est ce que je pense aussi. Votre réussite vous vaudra le galon de capitaine.
– J’espère que vous ne me l’épinglerez pas à titre posthume.
– Pas de mauvaise pensée, ‘‘capitaine’’, sinon vous arroserez votre nouveau grade avec du mauvais alcool de riz ! »

207
Jour J, Heure H – quelques heures :
Silencieusement les forces locales Dia-Phuong-Quân progressent dans les forêts qui recouvrent les montagnes de Bình Dinh. Comme il le dit lui-même, le lieutenant Phuoc connaît chaque caillou de ces parages et marche devant. Ses hommes portent chacun des sacs contenant des grenades et un bidon d’eau ; certains sont armés de baïonnettes de récupération ou de pieux, d’autres plus rares possèdent un Colt 45 (pistolet semi-automatique à 7 coups) avec interdiction de s’en servir avant l’heure H.
A un moment donné, un petit ruisseau coupe la progression. Rien de gênant, sauf que de l’autre côté de la rive court un filet de plus de 2 mètres de haut et dont la partie inférieure est arrimée dans l’eau. Derrière le filet, deux sentinelles Viêt-Công dont un semble plutôt éméché, car il chante des chansons se moquant du ‘‘vénérable’’ oncle Hô (dirigeant communiste mort en 1969) Ce dispositif tout simple arrête toute tentative d’infiltration.
Le lieutenant Phuoc réunit ses adjoints en un petit conseil de guerre :
– Si l’on essaie de contourner l’obstacle, on arrivera trop tard sur l’objectif.
– Si nous traversons à la nage, mon lieutenant, nous nous heurterons au filet. Mais on peut liquider les deux sentinelles sans problème.
– Non, trop risqué. Toute la mission repose sur la discrétion absolue et s’il y a un seul coup de feu tiré, toute l’opération capote, et nos amis les Biêt-Dông-Quân risqueraient aussi d’être ‘‘attendus’’ de leur côté.
– Que faire ?
– Thiêt, il paraît que tu as un homme qui grimpe aux arbres comme un singe ?

208
– Mieux que les singes, patron, répond Thiêt. U-Mê (c’est un nom d’autochtone) bat même les singes de vitesse dans les concours de cueillette de noix de cocos.
– Tant mieux, voilà ce qu’il va faire… »
L’instant d’après, le montagnard U-Mê traverse le ruisseau par la voie aérienne : il grimpe à un arbre, tend une perche qui repose sur un arbre planté sur l’autre rive, et traverse. Quand U-Mê atterrit de l’autre côté, il se retrouve alors à cinquante mètres des deux sentinelles.
Le temps de courir à travers la forêt et U-Mê neutralise les deux sentinelles, l’un d’un coup de baïonnette, l’autre d’un coup de pied. Il lance le signal convenu avant même d’ouvrir le filet avec sa lame. Phuoc est le premier à le rejoindre à la nage.
(U-Mê, après la débâcle de 1975, s’est réfugié dans les montagnes du Laos, mais sa famille lui manquait et il est revenu 2 ans plus tard… pour se faire décapiter. Ses enfants ont été envoyés dans un ‘‘orphelinat’’ du Nord et on ne les a jamais retrouvés)
Un Dia-Phuong-Quân sort tranquillement sa baïonnette et redresse la sentinelle qui est encore vivante. Phuoc lui demande :
– « Qu’est-ce que tu fous ?
– Ben… lui faire ce qu’ils ont fait à un de nos gars (allusion au DPQ décapité il y a quelques jours par les Viêt).
– T’es fou ? Bâillonne-le et ligote-le, on le questionnera plus tard.
– Mais …
– Pas de mais ! Tu sais que le lieutenant colonel Tuòng n’aime pas qu’on maltraite les prisonniers. Si tu touches à ce mec, je suis sûr que t’auras une permission derrière les barreaux pour des années.

209
Jour J, Heure H
Du côté des Biêt-Dông-Quân : peu avant 0 heure, une compagnie de Biêt-Dông-Quân (rangers) encercle silencieusement la tour d’observation Dài Kiêm Bao prise par l’ennemi et se tient prête.
Avant que le soleil ne se lève, à 5 heures, les rangers sud-vietnamiens déferlent en hurlant sur les positions ennemies et les nettoient à l’aide de grenades et de courtes rafales de M 16.
En moins d’une demi-heure, les soldats d’élite appartenant à la division communiste Sao Vàng (Etoile dorée) sont laminés et rares sont ceux qui arrivent à s’enfuir en laissant armes et bagages.
Du côté des Dia-Phuong-Quân : Connaissant bien le relief, les forces locales Dia-Phuong-Quân sont arrivées vers 4 heures du matin à proximité des positions ennemies sur la montagne Gênh, après avoir neutralisé discrètement plusieurs sentinelles en cours de route.
A 5 heures du matin, au signal du lieutenant Phuoc, les gars de la compagnie 1/209 lancent plus de cent grenades sur les Viêt-Công, les surprenant totalement. Très peu de soldats rouges réussissent à s’enfuir. Du côté de forces locales du lieutenant Phuoc, un seul blessé léger, touché par un éclat de sa propre grenade
Du côté de l’infanterie : Après avoir escaladé de nuit la montagne Nui Bà, un bataillon de la 22e division d’infanterie sudiste, commandé par le capitaine Tri, se retrouve derrière les ennemis qui encerclent la base Dê Gi.
De deux autres côtés, deux autres bataillons de la 22e sont aussi fin prêts.

210
A 5 heures du matin, les piétons de la 22e, venant de 3 directions différentes, déferlent sur les Rouges qui, surpris, n’offrent que peu de résistance. L’Etat-Major rouge est même obligé de s’enfuir en abandonnant ses sacoches bourrées de documents.
Du côté de la cavalerie : A 5 heures du matin, le régiment de chars sudistes M 113 arrive sur la plage de sable au sud de la base Dê Gi et ouvre le feu sur les batteries ennemies. Fuite des Viêt-Công qui laissent sur place de nombreux canons sans avoir le temps de les détruire.
Après avoir brisé l’encerclement, la chasse…
Au bout de cinq jours, le tableau de chasse présente de nombreux canons, de nombreuses mitrailleuses, des centaines de cadavres des soldats de la division Sao Vàng (Etoile dorée), des dizaines de prisonniers et d’innombrables armes individuelles. Pratiquement les trois quarts de la division Sao Vàng est détruite.
Du côté sud-vietnamien, un bilan de rêve : Pas un seul tué, pas un seul civil touché, pas une seule habitation détruite. On comprend que les civils des deux districts de Phù Cat et Phù My portent le lieutenant colonel Tuòng dans leur coeur.
Le 6e jour, le président de la république Nguyên Van Thiêu invite les ambassadeurs de nombreux pays étrangers à la base Dê Gi pour montrer les preuves de la violation du cessez-le-feu commise par les Nord-Vietnamiens. Un festin réunit les Etrangers et les Vietnamiens, avec au menu : la salade de riz au poisson qui est le plat préféré des forces locales Dia-Phuong-Quân.

211
Dans le courant du mois de juin 1973, un Viêt-Công se rend. Il s’agit du sieur Vo Van Ung, l’initiateur du siège de Dê Gi. Après son échec, il est rétrogradé et sa famille restée au Nord est envoyée en ‘‘vacances surveillées’’. Fatigué des blâmes et obligé de se méfier nuit et jour de tout son entourage, l’ex-commandant a préféré se rallier aux forces sud-vietnamiennes.
Vo Van Ung est natif de Bình Dinh et a commencé sa carrière militaire comme simple bidasse. Il a grimpé tous ses échelons au combat et comme initiateur d’opérations. C’était un pilier de la fameuse division communiste Sao Vàng à qui il a offert de nombreuses victoires. Le commandant déchu demande à voir celui qui l’a battu dans la bataille de Dê Gi.
A l’entrevue, le commandant déchu communiste s’étonne ainsi :
– « Pourquoi n’avez-vous pas utilisé l’aviation pour pourchasser et détruire le reste de mes troupes ?
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng répond doucement :
– « J’y ai pensé, figurez-vous. Mais bombarder ou mitrailler vos fuyards aurait risqué de toucher des maisons et des civils innocents. Je préférais éviter la perte d’une vie humaine dans la mesure du possible.
Le commandant communiste déchu se met au garde-à-vous et salue respectueusement son ancien adversaire.

212

213

14. L’aéroport Phù Cat
Le narrateur : Trân Thuc Vu :
– Né dans le Nord-ViêtNam
– Offi cier d’observation aérienne de la 219e escadrille Head hunter
– Adjoint au QG de la guerre psychologique de la zone de Bình Dinh
– Adjoint au PC des opérations de zone de Bình Dinh
Contrairement aux apparences, ce soldat (T. N. Hôi) appartient à l’aviation. Il fait partie du dispositif de défense extérieure d’une base aérienne et son arme semble être un PM Thompson calibre 11,43.

214
L’aéroport Phù Cat
(Trân danh giãi tõa phi truòng Phù Cat)
(cette narration fait suite au chapitre précédent)
Après la défaite concédée devant la base Dê Gi, la division nord-vietnamienne Sao Vàng est pratiquement détruite, et les activités communistes dans la province de Bình Dinh sont presque inexistantes.
Les Biêt-Dông-Quân des 4e et 6e groupes de bataillons stationnent dans les points sensibles Hoài Nhon et Tam Quan, tandis que les forces locales sécurisent les deux routes nationales 1 et 19. Si les activités ennemies sont rares, cela n’empêche pas les soldats sudistes de la province de s’entraîner nuit et jour, car ‘‘l’inactivité n’est pas bonne pour le moral’’.
Bref, tout va pour le mieux du monde dans la province de Bình Dinh, et dans son aéroport militaire Phù Cat.
L’aéroport Phù Cat et la base attenante ont été construits dans les années 1966-1967 par le génie de l’aviation américaine. La base s’étire dans l’axe sud-ouest / nord-est, depuis la montagne Vân Son jusqu’à la montagne Môt, à côté de la rivière Côn. La très longue piste permet de faire atterrir et décoller des avions à réaction.
Après le départ des Américains, la base est transférée sous le commandement du colonel Nguyên Hông Tuyên et devient celle du 60e groupe d’escadrilles de chasse.
Un dimanche matin du mois de mai 1974, l’adjudant Nguyên Dình Dôc, préposé à l’écoute au 2e bureau, saisit un message bizarre transmis sur les ondes des Viêt-Công :
« Quân ach chu bài dã vào vi-tri tâp kêt », c’est à dire :

215
« Les atouts du jeu de carte sont dans la position pour s’engager ».
Des messages bizarres, le Centre d’écoute du 2e bureau en reçoit plusieurs par jour. Mais poussé par un certain instinct, l’adjudant Dôc le montre au lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng (le gouverneur de la province, le colonel Hoàng Dình Tho est parti à Sàigon pour une réunion d’Etat-Major).
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng est un officier qui cherche à être au courant de tout ce qui se passe dans sa zone de commandement, mais également de ce qui se passe chez l’ennemi. Il a même créé des petits groupes de reconnaissance qu’il envoie dans les montagnes environnantes pour glaner des nouvelles.
Après un instant de déductions et de recoupements, le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng arrive à cette conclusion : le message bizarre veut signifier que la division communiste Sao Vàng est prête à attaquer un objectif très important. Et quel est l’objectif le plus important dans cette province, sinon la base aérienne de Phù Cat ?
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng contacte aussitôt le commandant de la base aérienne, le colonel Nguyên Hông Tuyên et réclame une réunion d’urgence. Le colonel de la base envoie illico un hélico pour ramener le lieutenant colonel Tuòng.
Pour garder le secret, seuls deux autres officiers assistent à cette réunion d’opération, en dehors des deux colonels. (le narrateur est l’une des 4 personnes présentes à cette séance de travail).
Il ressort que l’ennemi, la division Sao Vàng, a recomplété ses effectifs avec des troupes fraîches et s’apprête à s’emparer de la base aérienne du 60e groupe d’escadrilles. La base et l’aéroport sont sous la garde des ‘‘rampants’’ de l’aviation, renforcés par le 263e bataillon des forces locales Dia-Phuong-Quân dirigé par le commandant Pham Huu Ky. Mais comme la piste et la base s’étirent en longueur, les défenseurs sont obligés de couvrir tout le périmètre, et donc de se diviser en de petits groupes.

216
Le côté est de la base jouxte les trois district d’An-Nhon, Phù Cat et Tuy Phuoc dont les nombreux habitants auraient signalé le déplacement de l’ennemi. La pointe d’attaque de l’ennemi viendra certainement de l’ouest, de la montagne Vinh Thanh où quelques rares bergers et bûcherons subsistent. La montagne Vinh Thanh est couverte de forêts touffues qui abritent des sentiers et des ruisseaux favorables aux déplacements invisibles des troupes ennemies venant du Laos.
A l’ouest de la base se trouvent aussi deux collines qui font partie du dispositif de défense de l’aéroport : une au nord-nord-ouest qui est tenue par une section (50 hommes environ) des forces locales Dia-Phuong-Quân et l’autre à l’ouest, gardée par une section des milices Nghiã-Quân et appelée point fortifié 151.
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng évalue la force d’attaque ennemie à un régiment, voire plus (trois mille hommes) avec de l’artillerie, des canons DCA (Défense Contre Avions) et certainement des missiles Sol-Air SAM 7.
D’autre part, grâce à des fuites, l’ennemi doit être au courant de toutes les positions importantes de la base : emplacement du QG, réserves de munitions et surtout stationnement des avions.
Le commandant de la base, le colonel Tuyên, décrète l’état d’alerte à 100 % et rappelle tous les permissionnaires. Comme force de réserve pour défendre le QG de la base, le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng ne dispose que de la ‘‘double-compagnie’’ de reconnaissance de son QG -sous la direction du lieutenant Khuynh- soit 250 hommes habitués à se cacher et observer dans la forêt et non à supporter le choc des attaques frontales.

217
A ce moment, un convoi de camions remplis de Biêt-Dông-Quân (rangers sud-vietnamiens) traverse la province de Bình-Dinh en direction du camp d’entraînement Lam-Son. Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng doit palabrer longtemps avec le général Phan Trong Chinh des BDQ (rangers) pour ramener ces bérets marron à la base aérienne. Et encore, ces BDQ ne joueront que le rôle de défenseurs, c’est à dire qu’ils ne devront participer ni à une contre-offensive ni à une opération de recherche (il est vrai que la plupart des BDQ en question sont des bleus qui sortent de l’école).
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng voudrait aussi avoir à sa disposition le régiment de tanks en stationnement à An-Khê, mais leurs supérieurs sont tous en réunion à Sàigon. Qu’à cela ne tienne, Le lieutenant colonel se fait déposer par hélico au QG du régiment de chars et prétend qu’il en est le nouveau ‘‘Patron’’. Il ordonne aussitôt au régiment de cavalerie de faire route vers Bình Khê et d’attendre ses ordres.
Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng dévoile ses intentions au chef du régiment des chars : accompagnés de deux compagnies de reconnaissance, les tanks doivent attaquer l’aile sud de l’ennemi et couper ses forces en deux. Les tanks doivent rouler sans s’arrêter pour s’occuper d’éventuels prisonniers ou des armes à récupérer. Pendant ce temps, les Biêt-Dông-Quân de la base feront diversion en réceptionnant l’ennemi de face.
Envoyer des chars accompagnés d’une unité de reconnaissance attaquer un ennemi dont on ignore tout, ce n’est plus de l’audace. C’est de l’imprudence quasi-suicidaire qui peut conduire le lieutenant colonel téméraire devant le tribunal militaire. Mais dans la guerre, comme dans la vie, seuls ceux qui n’osent rien faire ne se trompent jamais.
Pour parfaire son dispositif, le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng offre un vol de reconnaissance en hélico au lieutenant Khuynh des ‘‘recon’’ et au lieutenant My des tanks. Rien ne vaut l’observation aérienne avant un affrontement au sol.

218
Dimanche dans la nuit
Comme prévu, les bombardements ennemis se déversent sur la base et ses alentours. Le bataillon d’éclaireurs de la division Sao Vàng communiste déferle sur le point fortifié 151 situé sur une colline et tenu par une petite section de miliciens locaux, les Nghiã Quân de Bình Khê. Après avoir enlevé ce point 151, les Rouges y installent leur artillerie pour pilonner la piste d’atterrissage de l’aéroport.
La colline 69, située au nord-nord-ouest, est un point fortifié tenu par une section du 263e bataillon sudiste qui résiste aux coups de butoirs de l’ennemi. Les Rouges croyaient bénéficier de l’effet de surprise alors qu’ils sont attendus de pied ferme par les défenseurs.
Du côté des Biêt-Dông-Quân (dont la plupart n’ont encore jamais connu le feu, rappelons-le) la ligne de défense résiste avec de l’artillerie déguisée en… chars d’assaut. Les Viêt-Công croient qu’une unité de chars est à l’intérieur de la base et concentrent leurs tirs sur des chars factices (en bois).
A ce moment, les vrais chars sudistes apparaissent sur l’aile gauche des assaillants. Les chars ouvrent le feu, en tir tendu, et les gars de la ‘‘reconnaissance’’ qui accompagnent les chars joignent leurs tirs à ceux des tankistes. Les ‘‘recon’’, habitués à se cacher dans la jungle, se paient même le luxe de donner l’assaut pour balayer les soldats d’élite de Sao Vàng.
En Français, on pourrait sortir la phrase classique : « Tel est pris qui croyait prendre »

219
La surprise est totale chez l’ennemi rouge. Le bataillon d’éclaireurs Viêt-Công qui a pris le point fortifié 151 n’a pas le temps de savourer sa victoire. En pleine nuit, les ‘‘recon’’ sudistes du lieutenant Khuynh attaquent à la grenade le point 151. Le chef Viêt-Công est tué dès le début de l’engagement et la débandade s’ensuit aussitôt chez ses hommes. Des dizaines de corps jonchent le sol, alors que, comme par miracle, aucune perte chez les Sud-Vietnamiens !
Le lieutenant Khuynh ramasse une sacoche bourrée de documents grâce auxquels on découvrira l’objectif ennemi : Prendre la base aérienne, établir un camp retranché et envahir toute la province de Bình-Dinh.
En attendant, les rêves de conquête des Rouges se sont transformés en fuite éperdue. Et dans cette fuite, les Viêt-Công abandonnent armes, bagages et même tenues de combat (pour mieux se mélanger à la population ou se dissimuler dans la forêt. Cela n’empêchera pas les civils de capturer plusieurs Viêt-Công et de les ramener à la base quelques jours plus tard).
Le petit QG de Phù Cat engage la poursuite avec deux sections de milices Nghiã-Quân héliportés. Les Nghiã-Quân ont leurs morts du point 151 à venger et sans l’intervention expresse du lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng, il y aurait eu moins de prisonniers.

220
Au bout de 48 heures, bilan de la bataille de l’aéroport Phù Cat :
Dans le camp ennemi de la division Sao Vàng :
– Des centaines de tués ou blessés
– Des dizaines de prisonniers, dont plusieurs officiers
– D’innombrables armes automatiques et semi-automatiques
– Une pièce de 122 en état de fonctionnement
– 4 mortiers de 82 non sabotés
– 1 mortier de 120 non saboté
– Plus un lance-roquettes de fabrication récente chinoise. Ce lance-roquettes est doté d’un viseur à infra rouge tellement inédit que les Américains l’ont emprunté pour l’étudier.
Côté sud-vietnamien :
Très peu de pertes, sauf pour les nghiã-quân du point fortifié 151 qui ont été submergés par un ennemi 20 fois plus nombreux, dès le début de l’engagement.
Deux lieutenant-colonels de la base aérienne sont promus colonels, tandis qu’un grand nombre de soldats, sous-officiers et officiers sont montés d’un grade.
Quant au lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng, il s’est vu décerner un blâme et trente jours d’arrêts par l’aspirant- général Câm –commandant en second du 2e corps d’armée-, pour avoir dirigé un régiment de chars sans en avoir l’autorisation ! Rappelons pour mémoire que lors de la bataille de Phù Cat, le brave général Câm était à Sàigon, en train de ‘‘conférencer’’ dans quelque dancing.
Cette décision a révolté le colonel Nguyên Hông Tuyên et tous les hommes de la base aérienne Phù-Cat. Même le grand patron de l’aviation sud-vietnamienne, le général Trân Van Minh est outré par cette décision. En juin 1974, le général Minh a pris l’avion pour Bình-Dinh et devant un parterre d’aviateurs de tous grades, déclare :

221
– « Le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng, bien qu’il fasse partie de l’armée de terre, est LE bienfaiteur de l’aviation et je demande que dorénavant, tout ce qu’il désire soit satisfait en priorité ! Tout ce que le lieutenant colonel demande, prenez-le comme s’il s’agissait de mes propres ordres !»
La coopération aviation-infanterie dans la province de Bình-Dinh sera telle que les avions battront tous les records quand ils seront appelés par les unités de M le lieutenant colonel Tuòng. Quant aux pilotes, ils savent que ces unités de terre ne les laisseraient pas tomber, même s’ils tombaient en zone ennemie.
Plus tard, vers août 1974, lors d’une réunion au sommet d’Etat-Major à Sàigon, en présence du Président de la République, du général Trân Thiên Khiêm (qui tient aussi le poste de Premier ministre) et du général Cao Van Viên (chef du GQG), le général d’aviation Trân Van Minh évoque à nouveau l’injustice commise envers l’officier Nguyên Manh Tuong.
Le général Cao Van Viên lui répond :
– Il n’y a plus de poste de colonel dans mes dossiers
– Dans ce cas, je le nommerai colonel d’aviation, réplique le général Trân Van Minh
Le général Trân Thiên Khiêm a aussitôt signé le décret nommant colonel monsieur Nguyên Manh Tuòng. C’est une récompense tardive pour un homme, un vrai.
Du côté de l’ennemi, le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng a déjà reçu une récompense bien plus ‘‘parlante’’: Sa tête est mise à prix pour une somme exhorbitante pour l’époque (100 000 dollars US, il me semble), ce qui n’est jamais arrivé à un quelconque général.

222
Après sa promotion au grade de colonel, je n’ai plus revu le colonel Tuòng. Puis l’Enfer a débarqué au Sud-ViêtNam un certain 30 avril 1975.
J’ai retrouvé l’officier de Bình Dinh un jour d’hiver 1977 dans un camp de ‘‘rééducation’’ situé à Hoàng Liên Son (Nord-ViêtNam) Je l’ai salué longuement avant que nous ne tombions dans les bras l’un de l’autre. Les tortures, les maltraitances, les vexations ou les jeûnes forcés ne semblaient pas avoir eu de prise sur lui. Toujours cet air calme et résigné.
On nous a séparés et je ne l’ai revu qu’en 1984, dans le camp en plein air Z 30 A, le camp dont seule la moitié des internés revenait. L’ex-colonel Tuòng me confia qu’il avait résisté aux humiliations, aux maltraitances et aux maladies grâce à la méditation. Il me montra alors la méditation et la respiration afférente :
« Inspiration profonde, longue, calme, lente … »
Quand il recevait des cadeaux de sa famille ou de quelque organisation de charité, il s’empressait de les partager avec les autres prisonniers, ne gardant pour lui que les pots de pâte de soja salé (hu tuong). Cet homme, dont la tête avait été mise à prix, forçait le respect des autres misérables et même de ses géôliers.
En 1987, je fus libéré. En 1992, je retrouvai M Nguyên Manh Tuong dans une baraque délabrée de la rue Công Ly. Il vivait seul et allait souvent méditer dans un coin de la pagode Vinh Nghiêm de Sàigon.
En 1993, le gouvernement communiste me mit en prison de nouveau car, paraît-il, je ‘‘portais atteinte à la sécurité de l’état’’. Grâce à l’intervention des associations internationales, je fus libéré en 1998 et extradé aux Etats-Unis l’année suivante.

223
Sur cette ‘‘terre d’accueil’’ (même si les Etats-Unis ont abandonné leurs alliés vietnamiens en 1975) je revis l’ex colonel de Bình Dinh. J’ai dû insister plusieurs fois sans pour autant qu’il accepte que j’écrive sur lui. Pour lui, tout était oublié, tout appartenait au passé, et nous devions vivre dans le repentir car nous portons notre part de responsabilité dans la perte de notre pays.
A la fin, j’ai fini par avancer l’argument principal : écrire sur lui, ce serait redonner en partie l’honneur perdu au soldat sud-vietnamien. Le lion de Bình Dinh a alors accepté.
Par Trân Thuc Vu
(en hommage à Nguyên Manh Tuòng)

224

225

15. Monsieur Nguyên Manh Tuòng
A l’Etranger, nombreux sont les soldats sud-vietnamiens qui se sont réunis au sein d’amicales, de clubs ou autres associations.
L’une de ces associations regroupe des écrivains d’origine militaire et se nomme nhom nhung nhà van quân dôi = ‘‘le groupe des soldats-auteurs’’. Le livre ‘‘Nhung Trân Danh Không Tên Trong Quân Su’’ traduit ici par l’auteur francophone TS4 est l’oeuvre de cette association
Au moment de mettre sous presse, en décembre 2002, le groupe des soldats-auteurs reçoit tout un dossier sur celui qu’on a surnommé ‘‘le lion de Bình Dinh’’. L’auteur du dossier, bien qu’ayant signé sa lettre, demande l’anonymat (car il a encore de la famille au Viêt-Nam et craint les représailles)
Cette personne a très bien connu le colonel Nguyên Manh Tuong et se permet d’ajouter certaines précisions sur ce héros peu connu et qui est toujours vivant.
A son tour, l’auteur francophone vous propose ci-dessous les traits les plus marquants.

226
Monsieur Nguyên Manh Tuong
Dossier principalement rédigé par le colonel NTD (qui a demandé l’anonymat) :
– Né à Duyên Hà (en ?), M Nguyên Manh Tuòng était de la 5e promotion de l’Ecole des Officiers de réserve Thu-Duc (à 15 Km au nord de Sàigon) Cette promotion était appelée promo Vì dân (c’est à dire ‘‘Pour le peuple’’)
– Un élève-officier de cette promotion est devenu le colonel NTD. Un autre élève-officier de cette promo est devenu le général Lê Van Hu’ng.
– D’après un ancien conseiller américain qui est devenu agrégé en Histoire, l’amour que porte M Nguyên Manh Tuòng pour sa Patrie est plus fort que ceux de tous les généraux sud-vietnamiens réunis.
– Peu de gens savent que M Nguyên Manh Tuòng est quatre fois major de promotion :
1) Major de promotion lors du stage de transmissions au Fort Benning(USA) en 1956
2) Major de promotion à la Formation au Commandement, à l’Ecole des Hautes Etudes Militaires en 1960
3) Major de promotion de la formation à la Direction au GQG, à l’Ecole Inter-Armes de Dàlat
4) Major de promotion au stage de Direction de la Tactique ( Tactical Commander) en 1972
– On racontait que le général dirigeant le GQG de Sàigon (celui qui n’avait jamais quitté son confortable fauteuil de Sàigon ni son cigare) disait de Nguyên Manh Tuòng : « Il ne faut pas le faire ‘‘monter’’ trop vite, sinon il nous dépasserait ! »

227
– Toujours selon ce général qui faisait la guerre dans son bureau climatisé : « Il ne faut pas le ramener à Sàigon car il pourrait bien nous faire un putsch ». C’est ainsi que le lieutenant colonel fut muté dans les Hauts Plateaux de la province de Bình Dinh, en 1972.
– D’après le conseiller américain devenu historien, l’aéroport Phù Cat (province de Bình Dinh) est vraiment passé à côté de la destruction totale, en mai 1974, grâce à un seul homme : le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuong. S’il n’avait pas eu cet instinct, ce sens de la déduction et ce talent de tacticien, non seulement l’aéroport Phù Cat aurait été réduit en cendres avec ses Jets de plusieurs millions de dollars, mais toute la province de Bình Dinh serait tombé sous le joug communiste dès 1974.
– Selon ce conseiller américain, les généraux qui avaient en charge la zone de combat de cette province étaient jaloux de ce lieutenant colonel car leurs propres troupes n’arrivaient à aucun résultat, alors que leurs conseillers alliés ne juraient que par ce ‘‘petit’’ lieutenant colonel.
– Le seul général qui avait de la sympathie pour ce « petit » lieutenant colonel était le général Trân Van Minh, commandant en chef de l’aviation sud-vietnamienne. Lors du gala de victoire à la base aérienne Phù Cat en juin 1974, le général Minh s’adressa à tout le parterre d’officiers d’aviation –dont beaucoup de colonels récemment promus- et désigna le seul invité issu de l’infanterie :
« Mes amis de l’aviation ! Regardez bien ce héros, ce lieutenant colonel de l’infanterie. Je n’ai jamais connu un ‘‘piéton’’ qui ait si bien défendu l’aviation comme ce monsieur 81 (81 est le nom de code radio de M Nguyên Manh Tuòng) Si vous êtes encore là à boire et à danser, c’est grâce à ce piéton. Dorénavant, si monsieur 81 demande quelque chose, faites comme si c’était moi-même qui vous l’ordonnais. Même s’il fallait prendre un Jet à réaction pour l’emmener en permission, faites-le ! Et si dans un dancing vous le rencontrez, ne l’embêtez pas car vous aurez affaire à moi ! »

228
– Plus tard, lors d’une réunion au GQG à Sàigon, le général Trân Van Minh a de nouveau évoqué le cas du lieutenant colonel, à qui on avait ‘‘oublié’’ de donner une promotion bien méritée. Il a même proposé de prendre le ‘‘colonel’’ Tuòng sous ses ordres, dans l’aviation. C’est au cours de cette réunion que la promotion du colonel Nguyên Manh Tuòng fut signée par le général Trân Thiên Khiêm.
– Après la guerre, certains historiens (dont des historiens américains) ont interviewé le général rouge Chu Huy Mân à propos de l’opération Dê-Gi. Ce dernier a répondu :
« Après la défaite, j’ai rétrogradé le commandant Vo Van Ung au grade d’aspirant lieutenant car il a sous-estimé monsieur Nguyên Manh Tuòng. Ce lieutenant colonel est un excellent officier, plein de talent et sans défaut. »
– Le général rouge Chu Huy Mân était un ami personnel de Hô Chi Minh et le haut-responsable militaire de la 5e zone militaire englobant plusieurs provinces du Centre. Il a exprimé toute son admiration pour son ennemi, le lieutenant colonel Nguyên Manh Tuòng et l’a placé bien au-dessus du général Cao Van Viên, celui qui faisait la guerre dans un bureau climatisé du GQG.

Conclusion du colonel NTD :
Jalousé et ‘‘saqué’’ par les généraux qu’il avait servis loyalement, mon ami Nguyên Manh Tuòng a reçu en fait trois citations émanant de trois armées différentes :
– Celle de l’armée du Sud-ViêtNam, de la bouche même du général d’aviation Trân Van Minh
– Celle de l’armée des Etats-Unis, par la voix de plusieurs conseillers (après la guerre, nombreux furent les Américains qui sont intervenus pour faire sortir le colonel des camps de concentration communistes)
– Celle de l’armée populaire du Nord-ViêtNam, par la parole admirative du général rouge Chu Huy Mân.

Par NTD, le 4 juillet 2002
En hommage à Nguyen Manh Tuong

Categories: Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường | Leave a comment

Blog at WordPress.com.